18/10/2025 16:00 GMT+7 | Tin tức 24h
Cách đây 50 năm, ngày 19/10/1975, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên ra đi đột ngột, khi vẫn đang là Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ngày cuối cùng của cuộc đời, ông vẫn còn trách nhiệm giáo dục trên vai, vẫn ấp ủ ý tưởng dang dở về một cuộc cải cách mới, xây dựng một nền giáo dục mới cho đất nước Việt Nam thống nhất.
50 đã năm trôi qua, nhưng tên tuổi và sự nghiệp của ông vẫn tỏa sáng trong lòng nhiều thế hệ trí thức Việt Nam như một biểu tượng về trí tuệ, nhân cách và lòng yêu nước của người trí thức Việt Nam hiện đại.
Một trí thức yêu nước
Nguyễn Văn Huyên sinh năm 1905, quê ở làng Lai Xá, tổng Kim Thừa, huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội); nhưng ông sinh ra và lớn lên ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội. Ông sớm bộc lộ tư chất thông minh, ham học. Năm 18 tuổi, ông cùng em trai sang Pháp du học, lần lượt đỗ Cử nhân Văn khoa (1929) và Cử nhân Luật (1931) tại Đại học Sorbonne - ngôi trường danh tiếng bậc nhất châu Âu thời bấy giờ.
Ở tuổi 29, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Văn khoa tại Sorbonne với hai công trình: “Hát đối đáp nam nữ thanh niên ở An Nam” và “Nhập môn nghiên cứu nhà sàn ở Đông Nam Á”. Cả hai được đánh giá xuất sắc và in thành sách ở Pháp, Đức, Hà Lan. Chủ tịch Hội đồng giám khảo Sorbonne khi ấy đã phải thốt lên: “Đây là sự kiện lớn lao đáng ghi nhớ trong lịch sử Đại học Sorbonne”.
Chân dung thời trẻ của ông Nguyễn Văn Huyên
Khi về nước, con đường quan lộ rộng mở nhưng Nguyễn Văn Huyên khước từ mọi lời mời làm quan của chính quyền thực dân để làm nghề dạy học. Ông từng nói: “Lấy nghiệp giáo để giúp người”. Ở Trường Bưởi, thầy Huyên truyền đạt không chỉ tri thức mà cả tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc cho học trò, trong đó có nhiều người sau này trở thành những nhà cách mạng, nhà khoa học lớn của đất nước.
Tinh thần yêu nước của ông không chỉ thể hiện qua giảng đường mà còn trong hành động. Năm 1938, ông tham gia Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ, cùng các trí thức như Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xiển… đưa con chữ đến với người dân nghèo. Ông và nhà sử học Trần Văn Giáp đã soạn phương pháp “I tờ…” - một cách dạy và học chữ Quốc ngữ đơn giản, dễ tiếp thu - góp phần vào phong trào xóa nạn mù chữ tiền thân cho bình dân học vụ sau này.
Khi Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra, ông cùng các trí thức Hà Nội ký bức điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị để “củng cố và thống nhất nền độc lập nước nhà”. Sau đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng mời tham gia Chính phủ lâm thời với cương vị Tổng Giám đốc Đại học vụ kiêm Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ. Ông còn là thành viên Ban cố vấn Hội nghị Đà Lạt và thành viên phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau (Pháp) năm 1946, góp phần đấu tranh ngoại giao vì độc lập dân tộc.
Trở về sau Hội nghị, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân mời giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo). Ban đầu ông từ chối vì tự nhận “chưa có kinh nghiệm quản lý”, nhưng Bác Hồ động viên: “Chú phải chia chữ cho nhân dân”. Chính câu nói ấy đã khơi dậy nơi ông một sứ mệnh thiêng liêng: đem ánh sáng tri thức đến với đồng bào mình. Và từ đó, ông gắn bó trọn đời với sự nghiệp giáo dục trong suốt 29 năm cho đến khi qua đời.
Người đặt nền móng cho nền giáo dục Việt Nam hiện đại
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục từ 1946 đến 1975, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã có gần ba thập kỷ gắn bó với ngành giáo dục nước nhà. Ông là người đặt nền móng cho nền giáo dục Việt Nam hiện đại.
Khi ông nhận nhiệm vụ, hầu hết dân số Việt Nam không biết chữ. Trong điều kiện đất nước kháng chiến, thiếu trường lớp, sách vở và giáo viên, Bộ trưởng Huyên đã phát động phong trào bình dân học vụ với khẩu hiệu “Toàn dân học chữ”. Đến năm 1946, đã xóa mù cho hơn 2,5 triệu người - một kỳ tích trong lịch sử.
Ông chỉ đạo dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy, thay thế tiếng Pháp, xây dựng chương trình và sách giáo khoa mới phù hợp thực tế kháng chiến. Đích thân ông tham gia biên soạn sách Sử, Địa, soát nội dung chương trình trung học và đại học.
Với tầm nhìn chiến lược, ông chủ trì hai cuộc cải cách giáo dục lớn (1950 và 1956), xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất từ mẫu giáo đến đại học, gắn học với hành, gắn giáo dục với phục vụ sản xuất và kháng chiến.
Giáo sư Huyên (thứ hai từ trái sang) tham gia phái đoàn Chính phủ Việt Nam dự đàm phán tại Fontainebleau, Pháp, tháng 6/1946. Ảnh: TL
Khi miền Bắc giải phóng năm 1954, ông chỉ đạo mở rộng mạng lưới trường học, đặc biệt là các trường sư phạm để đào tạo giáo viên. Đến giữa thập niên 1960, miền Bắc đã có 17 trường đại học với gần 30.000 sinh viên, đào tạo hàng nghìn cán bộ khoa học kỹ thuật phục vụ công cuộc kiến thiết đất nước.
Khi chiến tranh phá hoại lan rộng, ông vẫn kiên định: “Dù trong hầm hay trong hang, vẫn phải học”. Hình ảnh vị bộ trưởng đạp xe đi thăm các trường ở chiến khu, ăn cơm ngô, mặc quần nâu, sống giản dị cùng giáo viên và học sinh đã trở thành biểu tượng đẹp của người thầy lớn.
Dưới sự lãnh đạo của ông, ngành giáo dục duy trì hoạt động hiệu quả suốt hai cuộc kháng chiến, đào tạo nên những thế hệ nhà khoa học đầu ngành như Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Lân Dũng… Năm 1974, Việt Nam lần đầu tiên tham dự Olympic Toán học quốc tế và giành 4 huy chương – một thành tựu thể hiện tầm nhìn chiến lược của vị Bộ trưởng đã đặt nền cho giáo dục khoa học đỉnh cao.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng viết về ông: “Hoàn thành những công việc này trong hoàn cảnh khó khăn lạ lùng của các cuộc kháng chiến chứng tỏ ông là người có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp cực kỳ đẹp đẽ”.
Nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên nửa đầu thế kỷ XX
Trước khi trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, Nguyễn Văn Huyên đã là một học giả lớn tầm cỡ quốc tế. Trong khoảng mười năm sau khi bảo vệ luận án Tiến sĩ ở Pháp, ông đã công bố 46 công trình khoa học bằng tiếng Pháp về văn hóa và văn minh Việt Nam, đặt nền tảng cho các ngành dân tộc học, xã hội học và nghiên cứu văn hóa Việt Nam hiện đại.
Giáo sư Hà Văn Tấn từng nhận xét: “Người ta thường coi Nguyễn Văn Huyên là một nhà dân tộc học lớn, điều đó đúng. Nhưng đọc ông, tôi thấy nổi bật hơn là tư duy của một nhà xã hội học, luôn hướng tới phân tích cấu trúc xã hội Việt Nam”.
Ông nghiên cứu phong tục, lễ hội, văn học dân gian, kiến trúc, tín ngưỡng - từ thờ Thành hoàng làng, tục thờ Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên, Chử Đồng Tử - để chứng minh rằng người Việt Nam có hệ thống tín ngưỡng, văn minh và nhân sinh quan riêng biệt, không vay mượn từ Trung Hoa như nhiều học giả phương Tây lầm tưởng.
Vợ chồng cố Giáo sư Nguyễn Văn Huyên trong tuần trăng mật. Ảnh: CAND
Cách tiếp cận của ông vừa cụ thể, tỉ mỉ, vừa mang tính tổng thể; qua đó thể hiện bản lĩnh của một nhà khoa học nhân văn hiện đại, sớm vận dụng các phương pháp liên ngành trong nghiên cứu xã hội học, dân tộc học và lịch sử văn hóa.
Nhà sử học Trần Quốc Vượng từng viết: “Ông là một nhà khoa học nhân văn lớn và hiện đại đầu tiên ở nửa đầu thế kỷ XX này"..."Giới nghiên cứu trẻ/già hôm nay còn được học và phải học ở ông nhiều về phương pháp luận và các phương pháp tiếp cận những sự kiện nhân văn”.
Không chỉ là nhà nghiên cứu, Nguyễn Văn Huyên còn là người khơi dậy lòng tự hào dân tộc thông qua khoa học: chứng minh giá trị của văn hóa Việt bằng ngôn ngữ học thuật của thế giới, để người Việt tự tin rằng mình có một nền văn minh độc lập, bền vững. Đó cũng là lý do các công trình của ông đến nay vẫn được xem là nền tảng lý luận cho nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam.
Di sản tinh thần và tấm gương nhân cách
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên không chỉ để lại những công trình khoa học đồ sộ hay mô hình giáo dục quốc dân đầu tiên, mà còn để lại một tấm gương nhân cách mẫu mực của người trí thức yêu nước, tận tụy, khiêm nhường và liêm chính. Suốt gần 30 năm giữ trọng trách Bộ trưởng, ông sống giản dị, tận tâm với đồng nghiệp, luôn dành tiền phụ cấp và nhuận bút để giúp đỡ giáo viên, học sinh khó khăn.
Năm 2000, ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ. Tên ông được đặt cho một con phố tại Hà Nội, chạy ngang qua Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Tại quê hương Lai Xá, năm 2014, Bảo tàng Nguyễn Văn Huyên được khánh thành, lưu giữ những kỷ vật, bản thảo, sách nghiên cứu, và cả chiếc xe đạp - biểu tượng của người Bộ trưởng “chia chữ cho dân”.
Dù đã đi xa nửa thế kỷ, tên tuổi và di sản của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên vẫn sống mãi trong sự nghiệp văn hóa - giáo dục Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là biểu tượng cho trí tuệ, nhân cách và tinh thần cống hiến không mệt mỏi của lớp trí thức Việt Nam yêu nước. Trong bối cảnh đất nước tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và hội nhập sâu rộng với thế giới, tư tưởng “chia chữ cho dân”, tinh thần “giáo dục vì con người, vì dân tộc” mà ông khởi xướng vẫn tỏa sáng giá trị thời sự sâu sắc - nhắc nhở thế hệ hôm nay tiếp tục vun đắp cho một nền giáo dục Việt Nam nhân văn, sáng tạo và phát triển bền vững.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất