Những bài viết về việc sử dụng từ ngữ trong dân gian, trong đời sống hàng ngày, trên các phương tiện truyền thông sao cho đúng, qua đó góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đồng thời mang đến những thông tin lành mạnh, tích cực, nhân văn cho công chúng và xã hội.
Trong tiếng Việt, tùy theo ngữ cảnh, trốc/đầu có nhiều tầng nghĩa. Nếu hiểu đầu như "Đại từ điển tiếng Việt" (1999): "Phần trên cùng có chứa não của cơ thể người, cơ thể một số động vật hoặc phần trước nhất của cơ thể động vật" - thì một khi nói đến từ trái nghĩa của nó, ta thường nghĩ đến chân.
Từ năm 1895, ông Huình Tịnh Paulus Của có ghi nhận "tiếng mới" thuở ấy vừa du nhập vào lời ăn tiếng nói: "Làm lửa" - nay chẳng hề thấy ai sử dụng, tự nó đã đào thải, cụm từ này được giải thích: "Lãnh việc chụm lửa dưới tàu khói".
Con trâu có lông màu đen, đích thị gọi "trâu đen". Đố ai dám cãi. Tương tự, con ngựa lông đen gọi "ngựa đen", đúng quá chứ gì? Không, phải gọi là "ngựa ô". Vậy mèo đen cũng gọi "mèo ô"? Không, gọi "mèo mun".
Tôi còn nhớ, thời niên thiếu sinh hoạt cộng đồng có bài ca "chế" vui vui: "Giờ ăn đến rồi, giờ ăn đến rồi/ Mời anh xơi, mời anh xơi/ Giơ chén lên cho cao này, giơ chén lên cho cao này, ta cùng ăn, ta cùng ăn".
"Ngửa lưng cho thế gian nhờ/ Chẳng thương thì chớ lại ngờ bất trung", là đố về chữ gì? Rõ ràng đó là chữ "phản", phản thùng, phản phé, phản phúc, phản nghịch… Vậy, "phản ngựa" thì sao?
Ở Nam bộ, nói đến cái phảng phát cỏ thì không thể bỏ qua cái cù nèo. "Phảng đâu, cù nèo đó" - thành ngữ. Khi sử dụng phảng, dù không phải khòm lưng, nhưng muốn chém cỏ sát tận gốc thì nhờ cái cù nèo.
Không riêng gì tiếng Việt, bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có phương ngữ. Chính điều này góp phần làm phong phú, đa dạng cho lời ăn tiếng nói của đất nước đó. Tiếng Việt mình, tôi nghĩ, có từ địa phương đa diện, đa sắc, thậm chí có thể cùng vùng miền nhưng chưa chắc người ta đã hiểu vốn từ đó.
Một trong những thú chơi chữ của người Việt Nam là nói lái. "Nói bằng cách giao hoán âm đầu, vần và thanh điệu của 2 âm tiết trong một tổ hợp để tạo nên nghĩa khác hẳn với nghĩa ban đầu của tổ hợp: Cách nói "đầu tiên" nghĩa "tiền đâu" là lối nói lái trong tiếng Việt" - "Đại từ điển tiếng Việt" (1999) giải thích.
Đọc lại ca dao, thích thú nhất là đôi lúc chúng ta bắt những câu thơ toàn bích, không chê vào đâu được. Có thể ban đầu còn thô ráp, sau khi lưu truyền, người tiếp nối đọc theo và tự ý chỉnh sửa để hay hơn, hoàn hảo hơn.
Có thể nói, nhà văn Tô Hoài vốn rất ý thức "tu luyện" chữ nghĩa. Trong "Sổ tay viết văn" (1977), ông kể: "Trong "Truyện Kiều" có chữ "áy" ("Một vùng cỏ áy bóng tà"), không biết nghĩa chữ áy thế nào, mới đọc đã cảm thấy man mác, thấy buồn.
"Em không phải người tham đào, phụ liễu/ Em không phải người tham nhiễu, phụ lương/ Em không thương anh lắm ruộng nhiều vườn/ Thương vì ý ở biết kính nhường mẹ cha".
Có những câu thơ sau khi đã viết xong, đọc lại, ngay cả tác giả cũng không thể lý giải vì sao mình đã viết như thế. Do đó, không phải ngẫu nhiên khi bình thơ, để khen nức khen nở câu thơ nào đó, nhà phê bình hoặc đồng nghiệp thường "phán" câu nghe trớt quớt: "Trời cho".