Chữ và nghĩa: Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?

05/10/2025 06:50 GMT+7 | Văn hoá

Nhẫn nghĩa là gì?

Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY

Từ điển từ Việt cổ (NXB Văn hóa Thông tin, 2001) của Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện chỉ ghi nhận, giải thích: "Tới khi, tới lúc" - với văn liệu như "Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay", "Lòng Xuân nhẫn động ắt khôn gìn", "Nhẫn thấy Ngu Công tua xá hỏi" (Quốc âm thi tập)… Ta có thể bổ sung thêm, chẳng hạn, thơ Nguyễn Trãi có những câu như:

"Còn có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung"

Ta nhớ Thúy Kiều sau lúc quyết định bán mình chuộc cha, đêm ấy, nàng đã thức sáng đêm khiến Thúy Vân ôn tồn gặng hỏi: "Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?".

Vậy "nhẫn"còn nghĩa nào khác nữa không?

Chữ và nghĩa: Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh? - Ảnh 1.

Ảnh minh hoạ: Internet

Ta hãy lấy tập thơ Nôm khuyết danh Thiên Nam ngữ lục làm cứ liệu khảo sát. Tác phẩm này viết bằng thể thơ lục bát, dài 8.136 câu, 2 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú, ngoài ra còn có 31 bài thơ và sấm ngữ viết bằng chữ Hán, chưa xác định cụ thể được viết trong năm nào. Ta hãy đọc những câu:

"Nhẫn đành nước chẳng đao binh

Loan xa thánh giá về thành Hoa Lư"

"Song dầu phúc đức mẹ còn

Sông nhẫn lở mòn, cát lại bồi ra"

"Nhẫn" ở đây không phải "tới khi, tới lúc", mà hàm nghĩa như dầu, dù, ví như… Có một điều lạ là Từ điển Việt - Bồ - La (1651) dù ghi nhận "nhẫn" theo nghĩa Từ điển từ Việt cổ (2001) giải thích, nhưng lại ghi "nhễn": "Nhễn nay: Cho đến bây giờ, đến nay. Cùng một nghĩa". Từ bao giờ người Việt không sử dụng từ "nhễn" nữa? Thật không dễ dàng trả lời. Riêng từ "nhẫn" theo nghĩa này còn tồn tại đến thế kỷ 20, bằng chứng là Việt Nam tự điển (1931) còn ghi nhận: "Nhẫn: Đến. Từ ấy nhẫn nay".

Nhân bàn về từ "nhẫn", thật thú vị, khi ta lại còn tìm thấy dấu vết của từ "nhẩn" (dấu hỏi) lại đồng nghĩa với từ "nhển" (dấu hỏi). Tra lại từ điển tiếng Việt hiện nay, ta không tìm thấy từ "nhển". Không có là phải rồi, nay, người Việt gọi là "nhẫn" (dấu ngã), Từ điển Việt-Bồ-La (1651) cho biết: "Nhển, cái nhển: Chiếc nhẫn, "nhển xúien đeo tay": Mang nhẫn có chạm trổ, "nhển tlơn": Nhẫn trơn không chạm trổ". Hầu như từ "nhẫn/ nhẩn/ nhển" với các nghĩa trên, nay đã không còn thông dụng. Có câu ca dao liên quan tới nhẫn/ chiếc nhẫn, ngẫm ra cũng hay hay:

"Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa

Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ hãy còn"

Trường hợp này, cụ thể là người ấy đeo nhẫn? Chắc là thế, vì xưa nay một khi dựng chồng gả vợ ắt đeo nhẫn vào ngón áp út, vì thế cần hiểu theo nghĩa bóng là nói chuyện về người phụ nữ lẳng lơ sau khi "lên xe hoa" đã ly dị chồng, chứ không phải mỗi một chuyện đeo nhẫn.

Cái nhẫn lại trùng âm với nhẫn, vốn từ Hán - Việt, thí dụ:

"Chữ nhẫn là chữ tương vàng

Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu"

Câu ca dao này, "chuẩn không cần chỉnh", không gì phải tranh cãi. Có điều thú vị là mới đây chỉ do tò mò muốn tìm hiểu tâm lý hướng thiện của số đông, tôi đã dò hỏi khá nhiều nhà viết thư pháp tiếng Việt, đại khái, đâu là chữ đã viết nhiều nhất theo yêu cầu của khách hàng? Trăm người như một, họ cho biết đó là chữ "nhẫn". Ngẫm ra lời dạy của ông bà mình, thời nào cũng đúng.

Lê Minh Quốc

Tags:
Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm