Trị thủy cho Hà Nội (kỳ 6): Từ "cuộc chiến" chống ngập lụt hơn trăm năm trước

20/10/2025 07:06 GMT+7 | Tin tức 24h

Nhìn lại lịch sử, việc trị thủy và thoát nước cho Hà Nội đã được đặt ra từ cuối thế kỷ 19, khi người Pháp bắt đầu thiết lập khu nhượng địa và quy hoạch những nền móng đầu tiên cho một đô thị hiện đại. Họ từng dốc sức thiết kế hệ thống đê, kè, cống ngầm quy mô lớn nhằm kiểm soát lũ sông Hồng và khắc phục tình trạng ngập úng trong đô thị.

Để có cái nhìn toàn cảnh về những nỗ lực của người Pháp trong việc chống ngập lụt ở Hà Nội thời cận đại, tiếp theo những phân tích gợi mở của nhà sử học Dương Trung Quốc ở kỳ 5, Thể thao và Văn hóa (TTXVN) có cuộc trò chuyện với TS Đào Thị Diến - tác giả cuốn Hà Nội thời cận đại - Từ nhượng địa đến thành phố (1873 - 1945), công trình từng giành Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2024 ở hạng mục Tác phẩm.

Trị thủy cho Hà Nội (kỳ 6): Từ "cuộc chiến" chống ngập lụt hơn trăm năm trước - Ảnh 1.

TS Đào Thị Diến

* Thưa bà, vì sao ngay từ cuối thế kỷ 19, vấn đề thoát nước đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với Hà Nội, được chính quyền thuộc địa quan tâm?

- Để có thể hiểu một cách logic vấn đề này, chúng ta hãy nhìn lại về cấu trúc kinh thành Thăng Long xưa. 

Trong lịch sử, kinh thành Thăng Long gồm 3 vòng thành, vòng ngoài cùng được gọi là thành Đại La vừa làm chức năng thành lũy bảo vệ toàn bộ khu vực kinh thành (kể cả vùng cư trú của nhân dân), vừa là đê ngăn lũ, lụt. Mặt ngoài thành Đại La được bao bọc bởi 3 con sông: sông Nhị (tức sông Hồng), sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Không chỉ bao bọc mà cả 3 con sông này còn len lỏi vào tận bên trong kinh thành. Phía ngoài thành Đại La là những vùng sông nước, nhiều nơi còn lầy lội, phía trong thành cũng có nhiều hồ ao với mạng lưới khá dày đặc. Chính vì vậy mà nạn lụt thường xuyên xảy ra, đe dọa cuộc sống của cư dân trong kinh thành.

Theo ghi chép của một số người phương Tây đã từng đến Hà Nội vào cuối thế kỷ 17 thì Hà Nội còn là kết quả của "sự cân bằng mong manh và không ổn định giữa đất và nước"; đường đất, nhà gianh lụp xụp với nền đất nện đã tạo ra bóng dáng của một thành phố cổ với tình trạng "bẩn thỉu lầy lội mỗi khi trời mưa"; các con phố trong khu người Việt không được lát đá, không có vỉa hè, không có hệ thống cống nên mỗi khi có mưa xuống thì đường phố đầy bùn rất khó khăn trong việc đi lại...

Nạn lụt xảy ra ở Thăng Long xưa còn là hậu quả của các cơn bão lớn gây ra. Theo thống kê chi tiết, Thăng Long - Hà Nội dưới triều Nguyễn, từ năm Tân Sửu (1121) đến năm Tân Mùi (1871) đã phải hứng chịu tới 24 trận lụt do bão và do các con sông (chủ yếu là sông Hồng) gây ra.

Để giải quyết tình trạng ngập lụt, triều đình đã thực hiện nhiều biện pháp như: phái biền binh khởi công bồi đắp (ngoài cắm cọc gỗ, bên trong đổ đất đá để ngăn không cho nước sông xói lở vào sát chân thành); xuất tiền để thuê dân phu làm kè sông mới; giáng cấp có thứ bậc khác nhau đối với các quan tỉnh, phủ, huyện tại các địa phương bị ngập, lụt vì lơ là trách nhiệm đối với các con đê nơi mình phụ trách...

Biện pháp khẩn cấp nhất mà triều đình đã thực hiện là cho phá 11 đoạn đê công ở các huyện Yên Sơn, Mỹ Lương và một đoạn đê tư thuộc huyện Thạch Thất nhằm tránh thiệt hại cho Hà Nội trong trận lũ lịch sử xảy ra tại Bắc kỳ vào tháng 6 năm Tân Mùi (1871)... Nhưng vấn đề này vẫn không được giải quyết triệt để như mong đợi, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý... của Thăng Long - Hà Nội. Vì vậy dưới thời Nguyễn, Bắc thành nói chung, tỉnh Hà Nội nói riêng không ít lần phải chịu cảnh "nước trắng kéo dài".

Kể từ khi được quyền sở hữu một khu đất phía Đông - Nam thành phố để lập thành khu nhượng địa (còn được gọi là Đồn Nam, tức Đồn Thủy, nay là phố Phạm Ngũ Lão), theo thỏa ước ký kết ngày 11/01/1875 với triều Nguyễn, cho tới khi bắt đầu khởi công xây dựng các công trình kiên cố trên khu nhượng địa vào tháng 10/1875, chính thức mở đầu thời kỳ xây dựng Hà Nội, người Pháp bắt đầu đối diện với nạn lụt do những cơn bão và những trận lũ lớn tràn qua Hà Nội.

Trị thủy cho Hà Nội (kỳ 6): Từ "cuộc chiến" chống ngập lụt hơn trăm năm trước - Ảnh 2.

Gia cố đê Clémenceau (nay là đường Trần Khánh Dư và Nguyễn Khoái) năm 1926. Ảnh của Phủ Toàn quyền Đông Dương. Ký hiệu: C 880 GG

Đó là cơn bão vào đêm ngày 5 rạng ngày 6/10/1881 (cơn bão này đã cuốn đi nhiều ngôi nhà, cây cối trong khu nhượng địa, gây thiệt hại khoảng từ 7.000 đến 8.000 frs Pháp); đó là trận lũ lớn xảy ra ở Hà Nội vào năm 1884 (trận lũ này đã cuốn trôi bờ đất của khu nhượng địa một khoảng rộng 60 mét và dài 3 km, vì khu này được xây dựng ở phía Đông - Nam thành phố, ngay giáp bờ sông Hồng, trong lịch sử nhiều lần đã bị ngập lụt hoặc nước lũ tàn phá); đó là trận lũ vào năm 1885 xảy ra ở Hà Nội (trận lũ này tiếp tục cuốn trôi khoảng vài ngàn mét khối đất của khu nhượng địa; các tòa nhà công sở gồm tòa tổng trú sứ, dinh tổng tư lệnh, văn phòng bộ tổng tham mưu... gần như bị đổ sụp xuống sông Hồng).

Thiên tai đã cuốn phăng nhiều nỗ lực của quân đội Pháp ở khu nhượng địa khiến cho họ phải nghĩ tới những giải pháp chống lũ, lụt cho thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, vấn đề thoát nước cho thành phố cũng đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết đối với bộ máy chính quyền thuộc địa.

* Đối mặt với thực tế bão lũ như thế, người Pháp đã có những giải pháp chống lũ, lụt nào và họ ưu tiên cho những khu vực nào trước tiên, thưa bà?

- Theo tài liệu lưu trữ thì các giải pháp chống lũ, lụt mà người Pháp tiến hành ngay từ năm 1884 gồm: Thứ nhất, thiết kế hệ thống phòng lũ lụt bảo vệ khu nhượng địa. Đây chính là công việc đầu tiên được quân đội Pháp ưu tiên thực hiện. Ngay sau trận lũ lớn năm 1884, kỹ sư Pavillier, phụ trách cầu đường thuộc Sở Công chính Sài Gòn (Service des Travaux Publics de Saïgon) được điều ra Hà Nội để nghiên cứu vấn đề này. Pavillier đã thiết kế một hệ thống phòng chống lũ bằng 2 cách: trực tiếp (cho ốp đá trên một móng vững chắc chạy dài 400 mét) và gián tiếp (đẩy dòng chảy từ bờ phải sang bờ trái nhờ một con đê dọc sông được xây dựng ở phía trên thành phố).

Năm 1885, các công trình trong thiết kế của Pavillier bắt đầu được thi công và con đê thượng lưu đã được hoàn thành trước mùa lũ năm 1885, do đó dòng chảy sông Hồng đã thay đổi, không còn chảy xối vào khu nhượng địa như trước nữa. Dần dần, một dải cát đã hình thành và dòng sông đã cách xa khu nhượng địa. Tuy nhiên, việc xây kè và đắp móng đá đã dẫn tới một kết quả không mong muốn, đó là đẩy nhanh việc hình thành bãi cát bồi khiến cho các bến tàu ngày càng xa bờ. Thêm vào đó, dòng chảy bị đẩy sang phía tả ngạn đã cuốn đi một khối lượng đất đáng kể vào mỗi mùa nước nổi.

Một vấn đề nan giải khác buộc quân đội Pháp và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương phải quan tâm và tìm cách giải quyết, đó là tình trạng ngập úng do thoát nước kém ở khu nhượng địa trong các năm 1897 - 1898. Vì thế, bên cạnh việc xây dựng cống thoát nước cho khu vực này, họ còn tiến hành nghiên cứu thủy chế trong khu vực Hà Nội ngay từ năm 1888, trong đó có việc phân tích tình hình nước sông Hồng, sông Sét và các hồ ao tại khu vực Hà Nội để đưa ra các giải pháp nhằm chống lũ và thoát nước cho Hà Nội.

Trị thủy cho Hà Nội (kỳ 6): Từ "cuộc chiến" chống ngập lụt hơn trăm năm trước - Ảnh 3.

Sơ đồ các khu chứa nước thải của thành phố Hà Nội. Mạng lưới cống hiện có. Sơ đồ được Tổng Thanh tra công chính Đông Dương lập ngày 16/12/1938 cho Hà Nội, tài liệu thuộc Fonds de l’Inspection générale des Travaux Publics (IGTP), hồ sơ: 2342

Thứ hai, xây kè (quai), đê bao quanh thành phố. Công việc đầu tiên mà chính quyền thuộc địa ở Hà Nội tiến hành vào năm 1899 là bồi đắp thêm cho các đoạn thấp của đê Đại La rồi sau đó mới là xây dựng các kè và các con đê.

Kè (thường được gọi là đê quai) bờ sông Hồng được xây ở Hà Nội ngay từ những năm 1887 - 1891 như kè Cự Phú, kè Thương Mại (nay là một đoạn phố Trần Nhật Duật), kè Rheinart, kè Clémenceau và kè Guillemoto (những kè này sau được xây dựng thành đê); kè 300 mét dưới lòng sông Hồng phía thượng lưu cầu Hà Nội được xây năm 1901; kè đá phố France (nay là phố Tràng Tiền) được xây năm 1902...

Theo thống kê sơ bộ, Hà Nội có 3 con đê lớn được xây dựng trong thời cận đại là đê Parreau (nay là phố Hoàng Hoa Thám); đê Clémenceau (nay là đường Trần Khánh Dư và đường Nguyễn Khoái); đê Fellonneau (hay còn gọi là đường Cầu Đất, nay là đường Trần Quang Khải)... Những con đê này được đắp nhằm mục đích để bảo vệ thành phố Hà Nội tránh khỏi nạn lụt do bão lũ gây ra.

Thứ ba, kiểm tra và bảo trì đê thường xuyên, nhất là trong mùa mưa lũ. Tài liệu lưu trữ cho thấy, nhờ có chính sách hộ đê cùng các khoản tín dụng hàng năm cho công việc này của chính quyền thuộc địa mà các công trình bảo vệ đê sông Hồng phía thượng lưu Hà Nội đã được thi công ngay từ 1892. 

Từ 1893 đến 1897: đê tại các huyện Thọ Xương và huyện Thanh Trì nhiều lần được tu sửa vào năm 1894; các vết nứt trên đê Nhật Tân được gia cố vào năm 1895; đoạn đê sông Hồng qua địa bàn Yên Phụ được đắp cao thêm 30 trượng vào năm 1899 vì đoạn đê này rất thấp, thường xuyên bị nước tràn bờ mỗi năm; đê bờ phải sông Hồng đoạn từ làng Phúc Xá đến Bệnh viện De Lanessan (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108) được sửa chữa và gia cố vào năm 1909; đê sông Hồng đoạn từ Phúc Xá đến Thanh Trì được nâng cao và gia cố vào năm 1910; đê ngoại thành Hà Nội tại làng Lương Yên, tổng Thanh Nhàn được gia cố vào năm 1911; phần bờ phải của đê sông Hồng đoạn từ Phúc Xá đến Thanh Trì được nâng cao và gia cố vào năm 1912; đê Tứ Châu được gia cố, đoạn đê sông Hồng - Hà Nội được đắp mới và một con đê nhỏ trên đường Nhật Tân được đắp mới vào năm 1913; đê bờ phải sông Hồng đoạn từ Phú Xá đến Thanh Trì tại các làng Nhật Tân, Quảng Bá, Nội Châu, Nghi Tàm, Yên Phụ, Lãng Yên, Lạc Trung, Lương Yên... và các đoạn đê từ Nhật Tân đến Vĩnh Tuy tại các tổng Thượng, Phúc Lâm, Thanh Nhàn và Hoàng Mai được bồi đắp và gia cố vào năm 1914; đê bờ phải sông Hồng (phía hạ lưu Hà Nội) được mở rộng và gia cố vào các năm 1915 và 1918...

Từ năm 1924 - 1929, Bắc kỳ có riêng một chương trình gia cố đê do Tổng Thanh tra công chính Đông Dương (Inspection générale des Travaux Publics de l'Indochine) soạn thảo.

Chương trình này được bắt đầu bằng việc bồi đắp và gia cố các đoạn đê từ Yên Phụ đến Nghi Tàm, từ Nghi Tàm đến Quảng Bá và từ Yên Lãng đến Vĩnh Tuy vào tháng 5/1924. Năm 1925 việc gia cố được thực hiện đối với đê của huyện Thanh Trì tại các tổng Vĩnh Ninh, Nam Phù, Thịnh Liệt, Cổ Diễn và Ninh Xá và đoạn từ Đông Tác đến bờ đê sông Hồng (Lãng Yên). Riêng đê bờ phải sông Hồng được gia cố nhiều lần, 2 lần do cơn bão năm 1921 và 1923 gây ra; 2 lần trong năm 1925 cho đoạn từ Đông Ngạc đến Yên Phụ và đoạn từ đường Abattoir (phố Lương Yên) đến Nam Giư; 1 lần gia cố cho đoạn từ Đông Ngạc đến Nhật Tân vào năm 1926 và 1 lần cho đoạn từ Abattoir đến Thanh Trì năm 1927. Đê bờ trái sông Hồng cũng được gia cố nhiều lần trong các năm từ 1926 đến 1931, thậm chí có lần còn được gia cố trên một đoạn dài tới 5.491 mét...

Công việc bảo vệ đê điều trong mùa lụt từ 1917 - 1945 cũng được chính quyền bảo hộ ở Bắc kỳ và thành phố Hà Nội thực hiện như quy định việc canh gác, bảo vệ, gia cố và sửa chữa đê trong cả mùa khô và mùa mưa lũ, cùng các biện pháp an ninh đối với người và tài sản khi lũ lụt xảy ra; quy định có 5 hiện tượng thường gặp trên các đê và biện pháp khắc phục (sệ sườn đê về phía ruộng lúa, thấm nước qua thân đê hoặc dưới nền đất, sụt toàn bộ đê, phá mòn bờ đê, sụt lở hoặc bị huỷ hoại phía sông)...; các biện pháp an ninh đối với người và tài sản trong trường hợp đê vỡ cũng được quy định rõ ràng.

Trong các năm có thiên tai lũ lụt xảy ra (từ 1907 - 1930), chính quyền thuộc địa đã huy động sự trợ giúp của quân đội vào việc bảo vệ chống lụt ở Bắc kỳ và ở Hà Nội. 

* Bên cạnh những giải pháp chống ngập lụt, người Pháp đã có những giải pháp nào để giải quyết vấn đề thoát nước cho thành phố?

- Theo tài liệu lưu trữ, người Pháp đã tiến hành việc nghiên cứu để xây dựng một hệ thống thoát nước cho thành phố Hà Nội, trước hết là xây dựng một hệ thống cống ngầm của Hà Nội. Hệ thống đó được xây dựng theo các mốc thời gian như sau:

Từ năm 1892: sau khi khu phố Pháp đầu tiên được xây dựng ở phía Đông hồ Hoàn Kiếm, chính quyền thuộc địa đã xây dựng hệ thống cống rãnh trên phố Paul Bert (phố Tràng Tiền - Hàng Khay). Hệ thống cống ngầm này dùng để dẫn nước Hồ Gươm chảy qua Sapèquerie (Xưởng đúc tiền kẽm thuộc Cục Bảo toàn Bắc thành triều Nguyễn nay thuộc phố Phạm Sư Mạnh), chảy dưới vỉa hè phố Paul Bert, phía bên Grands Magasins (nay là Tràng Tiền Plaza) và từ đó qua cống thu nước lớn chảy về hướng Abattoir (ống cống được xây bằng xi măng gồm 500 mét có đường kính 0,50 mét; 200 mét có đường kính 0,40 mét và 200 mét có đường kính 0,20 mét).

Năm 1895: xây dựng các cống thoát nước trong thành cổ Hà Nội.

Trị thủy cho Hà Nội (kỳ 6): Từ "cuộc chiến" chống ngập lụt hơn trăm năm trước - Ảnh 4.

Chi tiết sơ đồ các khu chứa nước thải của thành phố Hà Nội gồm: Vùng số 1 là khu Trúc Bạch với diện tích 77 ha; vùng số 2 là khu đại lộ Carnot (phố Phan Đình Phùng) với diện tích là 153,92 ha; vùng số 3 là khu đại lộ Félix Faure (phố Trần Phú) với diện tích là 197,84 ha; vùng số 4 là gồm các phố Bovet (Yết Kiêu), Delorme (Trần Bình Trọng), Jauréguibery (phố Quang Trung) và Lê Lợi (một phần phố Bà Triệu) với diện tích là 226,80 ha; vùng số 5 là khu đại lộ Armand Rousseau (Lò Đúc) với diện tích là 351,84 ha

Từ năm 1897: chính quyền thuộc địa chú trọng đầu tư vào khu phố Pháp, tiến hành rải đá mặt đường, làm vỉa hè, xây cống ngầm và hoàn thiện hệ thống cung cấp điện và nước...

Từ năm 1902, "Dự án quy hoạch chung cho khu bản xứ của Sở Đô thị Hà Nội" (được đề xuất trong phiên họp thường kỳ vào tháng 5/1900) đã được hội đồng thành phố nghiên cứu và đưa vào thực hiện. Các phố cổ trong khu người bản xứ được lát vỉa hè, làm cống thoát nước mặt đường và được rải đá lòng đường. Nhờ vậy, bóng dáng của một thành phố cổ với tình trạng "bẩn thỉu lầy lội mỗi khi trời mưa" như trong ghi chép của một số người phương Tây đã từng đến Hà Nội vào cuối thế kỷ 17 đã biến mất. Việc đánh số nhà do Sở quản lý Đường bộ (Service de la Voirie) thực hiện cũng bắt đầu từ năm 1902, góp phần biến Hà Nội thành một thành phố hiện đại theo tiêu chuẩn châu Âu.    

Trong các năm từ 1889 đến 1892: xây dựng cống ở các phố Paul Bert, Abattoir, Pont en Bois (phố Cầu Gỗ) và Sucre (phố Hàng Đường).

Năm 1898: xây dựng đường cống thu nước thải dưới các phố trong khu phố người bản xứ như Nattes en Jonc (phố Ô Quan Chưởng), Jean Dupuis (phố Hàng Chiếu) và Cuivre (phố Hàng Đồng) tại Hà Nội với độ dài 600 mét.

Trong các năm 1925 - 1926: các cống thoát nước trên các phố Delorme (Trần Bình Trọng), phố Jambert (phố Nguyễn Trường Tộ), trên đường số 89 (phố Phạm Hồng Thái) đã được xây dựng.

Trong các năm 1926 - 1928: dự án xây dựng hệ thống cống thoát nước ở một trong những khu bản xứ đông dân tại Hà Nội đã được Thống sứ Bắc kỳ phê chuẩn. Theo yêu cầu của Giám đốc Khu Công chính Bắc kỳ, hệ thống này đã không sử dụng cống thu nước có đường kính dưới 0,30 mét, các đường ống 0,15 mét chỉ được sử dụng cho các đường ống nhánh gia đình; ngoài ra, cống thu nước thải tại đại lộ Van Vollenhoven (phố Chu Văn An) và phố Duvillier (phố Nguyễn Thái Học) cũng được xây dựng trong quãng thời gian này.

Trong khoảng 10 năm (từ 1934 đến 1944): thành phố tập trung tiến hành những công trình nạo vét các con sông nhỏ như sông Tô Lịch hoặc sông Nhuệ và trong khu vực Bạch Mai thuộc hệ thống tiêu nước của thành phố.

Tuy nhiên, trong kế hoạch dài hơi, việc mở rộng mạng lưới cống ngầm của thành phố đã được chính quyền thuộc địa chú trọng và ra quyết nghị ngay trong phiên họp của hội đồng thành phố ngày 19/12/1938. Kết quả là đến tháng 7/1942, dự án của kỹ sư Fayet ở Khu thủy lợi về việc nối mạng lưới hệ thống thu nước thải của Hà Nội với mạng lưới tưới tiêu của Hà Đông - Phủ Lý đã được đệ trình lên Thống sứ Bắc kỳ.

* Cảm ơn bà đã chia sẻ!

(Còn tiếp)

Công Bắc (Thực hiện)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm