14/10/2025 06:41 GMT+7 | Tin tức 24h
Có một thực tế: Dù Hà Nội đã có 2 văn bản quan trọng giai đoạn 2009 - 2012 (Quyết định 937/QĐ-TTg về quy hoạch tiêu nước hệ thống sông Nhuệ và Quyết định 4673/QĐ-UBND về quy hoạch phát triển thủy lợi đến 2020, định hướng 2030), nhưng mỗi khi mưa lớn, thành phố vẫn để xảy ra tình trạng ngập ở nhiều khu vực. Đâu là nguyên nhân?
Theo GS-TS Đào Xuân Học (nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam): "Ngập úng Hà Nội không chỉ là câu chuyện của mưa, mà còn là câu chuyện của con người, của quy hoạch và trách nhiệm. Đã đến lúc thành phố cần một tầm nhìn mới - tầm nhìn của một đô thị biết sống hài hòa với nước, thay vì chống lại nước".
GS-TS Đào Xuân Học
Lỗi không chỉ từ trời mưa
Ông tiếp tục câu chuyện với Thể thao và Văn hóa (TTXVN):
- Việc để xảy ra ngập kéo dài như thời gian qua là rất đáng buồn. Thực tế, mưa cực đoan do biến đổi khí hậu là yếu tố khách quan. Nhưng ngay cả khi lượng mưa lớn gấp 1,5 - 2 lần thiết kế thì cùng lắm thời gian tiêu chỉ nên kéo dài gấp đôi - từ 1 giờ thành khoảng 2 giờ. Còn để ngập cả ngày, thậm chí sang hôm sau, đó là lỗi lớn thuộc về quản lý và thực thi. Ở đây, vấn đề cốt lõi là phải rà soát hệ thống pháp luật, phân định rành mạch trách nhiệm giữa các ngành - từ thủy lợi, cấp thoát nước đến quản lý lưu vực. Nếu không, không thể xử lý hiệu quả ngập đô thị.
* So với giai đoạn sau trận lụt 2008 và trước đó, tư duy "trị thủy" của Hà Nội đã thay đổi thế nào? Và liệu có bài học nào đang bị lãng quên, theo ông?
- Sau trận ngập 2008 kéo dài 12 ngày (tương tự năm 1984), Bộ NN&PTNT đã lập "Quy hoạch tiêu cho hệ thống sông Nhuệ" - thực chất là quy hoạch chống ngập cho Hà Nội - được Chính phủ phê duyệt rất nhanh theo Quyết định 937 ngày 10/7/2009. Thời điểm 2008, tổng công suất bơm tiêu của Hà Nội chỉ khoảng 104m³/s; quy hoạch nâng lên 535m³/s.
Theo mốc thực hiện, đến 2015 phải hoàn thành giai đoạn 1 (Yên Nghĩa 120m³/s; Yên Sở thêm 45m³/s; Liên Mạc 70m³/s kết hợp tưới - tiêu; cùng các đầu mối Đào Nguyên, Đông Mỹ, Nam Thăng Long…). Đến 2020, hoàn thành toàn bộ cấu phần chính, gồm Liên Mạc 170m³/s, Yên Sở tổng 145m³/s, Yên Nghĩa 120m³/s…
Nhưng thực tế đến nay ta chưa làm được nhiều: Yên Nghĩa 120m³/s đã xây trạm nhưng kênh dẫn chưa hoàn thiện; Yên Sở mới tăng thêm 45m³/s, chưa làm giai đoạn 3 (55m³/s); Liên Mạc 70m³/s giai đoạn 1 chưa triển khai; Đào Nguyên, Đông Mỹ, Nam Thăng Long… đều chậm. Tóm lại, 16 năm qua Hà Nội thực hiện quá ít so với Quyết định 937 - đây là nguyên nhân chủ quan rõ ràng nhất.
Tính đến ngày 8/10/2025, dù ngừng mưa nhưng nhiều khu vực trên địa bàn thành phố vẫn còn bị ngập úng, có những điểm ngập sâu từ 30 đến 60 cm, Ảnh: TTXVN
* Thưa ông, hệ thống sông, hồ điều hòa, kênh mương, vùng trũng từng đóng vai trò gì trong giảm ngập nội đô, và vì sao hiệu quả này suy giảm?
- Hồ điều hòa có vai trò rất quan trọng: Giúp giảm đỉnh dòng chảy, giãn lưu lượng, tiết kiệm đầu tư hệ thống thoát nước. Và quy hoạch Chính phủ phê duyệt vẫn dành khoảng 4% diện tích cho hồ điều hòa - mà hồ lớn trước trạm bơm Yên Sở là một ví dụ. Nhưng hiệu quả cao nhất là bố trí hồ điều hòa đúng "vùng tiêu", theo phân lưu, chứ không chỉ tập trung gần nhà máy. Đáng tiếc, quá trình quản lý lâu nay yếu, nhiều hồ bị lấp, chức năng suy giảm.
Ta có thể học chính kinh nghiệm truyền thống ở làng cổ đồng bằng sông Hồng: Mỗi nhà có một ao lớn, vừa lấy đất tôn nền, vừa trữ nước sinh hoạt, nuôi cá, xử lý nước thải hữu cơ, làm mát vi khí hậu, đồng thời "cắt đỉnh" khi mưa. Đó là tư duy sinh thái rất thông minh mà đô thị hóa đã làm mất đi.
* Trong quy hoạch cao độ nền và thoát nước đến 2045 - 2065, đâu là các trụ cột bắt buộc để thích ứng với mưa cực đoan, theo ông?
- Trước hết, phải giữ nguyên tắc kỹ thuật "chôn - rải - tháo; cao tiêu cao, thấp tiêu thấp": Trữ nước tại ao hồ/bể ngầm (chôn), phân dòng hợp lý (rải), và tiêu theo địa hình, tuyệt đối không dồn nước nơi cao về nơi thấp. Cùng với đó là nâng cấp năng lực tiêu thoát vĩ mô theo Quyết định 937 để hạ mực nước khống chế trên các trục tiêu (sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét, sông Nhuệ, sông Liên Mạc…), tạo "nền" tiếp nhận nước từ nội đô. Khi nền vĩ mô đúng, hệ thống cống nội đô dù chưa kịp nâng đồng bộ cũng chỉ làm chậm tiêu thêm giờ, không thể gây ngập nhiều ngày.
Theo GS-TS Đào Xuân Học, hồ điều hòa rất quan trọng: Giúp giảm đỉnh dòng chảy, giãn lưu lượng, tiết kiệm đầu tư hệ thống thoát nước. Trong ảnh: Hồ Hà Nội - những lá phổi xanh của Thủ đô. Nguồn: TTXVN
Phải chuẩn hóa "đô thị thấm nước"
* Vậy theo ông, Hà Nội có nên bắt buộc mô hình "đô thị thấm nước" (mái xanh, vật liệu thấm, hồ sinh thái) cho mọi dự án mới và chuẩn hóa trong quy chuẩn nào?
- Nên, và rất cần trong bối cảnh khí hậu thay đổi. Tăng thấm và trữ phân tán có thể bù phần vượt chuẩn. Ví dụ, mỗi lô đất khoảng 100m² bố trí bể chứa 2 - 2,5m³ để "cắt đỉnh" và xả dần; trên mái tạo ngưỡng giữ khoảng 20cm nước rồi xả chậm 3 - 4 giờ thay vì dồn hết trong 1 giờ. Khu đô thị nên có bể ngầm trữ nước mưa để tưới cây, rửa xe, vệ sinh - mô hình kinh tế tuần hoàn mà Đức làm rất rộng rãi. Tất nhiên, cần lưu ý chống thấm, chịu lực, vệ sinh, phòng muỗi. Nhưng phải khẳng định: Đây là giải pháp bổ trợ. Trụ cột vẫn là hoàn thiện hạ tầng vĩ mô theo Quyết định 937.
* Nếu đưa ra lộ trình để Hà Nội không còn cảnh ngập kéo dài 1 - 2 ngày, ông có đề xuất gì?
- Cần làm ngay các "xương sống" của Quyết định 937: Hoàn thiện kênh dẫn và công trình để trạm bơm Yên Nghĩa đạt đủ 120m³/s trên thực tế; nâng Yên Sở lên tổng 145m³/s (bổ sung giai đoạn 3 thêm 55m³/s); triển khai Liên Mạc ở quy mô cập nhật 170m³/s, đồng thời cải tạo sông Liên Mạc đủ năng lực dẫn; thực hiện các trạm còn thiếu: Đào Nguyên, Đông Mỹ, Nam Thăng Long… để đạt tổng công suất 535m³/s.
Song song, phải cải tạo mặt cắt bốn sông đô thị (Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét) tương thích lưu lượng, tránh "nghẽn cổ chai"; thống nhất phân vai giữa các sở, ngành, thiết lập một đầu mối điều phối - chấm dứt tình trạng "một con sông bốn cơ quan quản". Sau khi nền vĩ mô vận hành tốt, cần chuẩn hóa bắt buộc mô hình "đô thị thấm nước" trong dự án mới và thí điểm cải tạo khu hiện hữu có nguy cơ ngập cao.
* Ông có khuyến nghị nào về những đề xuất dâng đập để "làm đầy sông", vừa giúp Hà Nội trị thủy, vừa cải thiện cảnh quan?
- Có thể nghiên cứu, vì công nghệ cho phép thiết kế đập dâng linh hoạt, giữ nguyên mặt cắt thoát lũ khi cần. Nhưng cũng cần hết sức thận trọng, vì khi lưu lượng hệ thống chưa được bảo đảm bằng cải tạo toàn tuyến (ví dụ phải chịu 145m³/s về Yên Sở), thì ưu tiên hàng đầu vẫn là chống ngập. Nếu chưa nâng năng lực truyền tải, mọi can thiệp dâng nước có thể tạo thêm rủi ro vận hành.
Kết luận của tôi là: Ngập kéo dài ở Hà Nội phần lớn do nguyên nhân chủ quan, quy hoạch thoát nước có nhưng làm quá ít. Cần khẩn trương hoàn thiện các trục tiêu và trạm bơm chủ lực, đồng bộ cải tạo sông đô thị và chuẩn hóa "đô thị thấm nước". Khi ấy, mưa lớn có thể làm chậm tiêu từ 1 lên 2 giờ, nhưng sẽ chấm dứt cảnh ngập dai dẳng qua ngày.
* Xin cảm ơn ông về cuộc phỏng vấn!
"Một con sông, nhiều đơn vị quản lý"
"Không chỉ chậm tiến độ, việc chồng chéo giữa các cơ quan quản lý cũng khiến hệ thống thoát nước Hà Nội rối như mớ bòng bong. Một con sông nhưng lại có tới 3, 4 đơn vị cùng quản lý (Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường), mỗi nơi phụ trách một khúc.
Không có đầu mối thống nhất thì không thể nói đến chuyện vận hành hiệu quả. Và không thể để một thứ quan trọng như hệ thống tiêu nước đô thị mà không có nhạc trưởng, để rồi lãng phí nguồn lực, chồng chéo dự án" - GS-TS Đào Xuân Học, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam.
(Còn tiếp)
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất