Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa"

10/10/2025 06:14 GMT+7 | Văn hoá

Theo các tư liệu được công bố trong cuốn sách Chợ Đồng Xuân - Không gian ký ức, vào năm 1903, một trận bão lớn đổ bộ vào Hà Nội, gây thiệt hại nặng. Dãy nhà chợ thứ tư của Đồng Xuân cũng bị tốc mái tôn và nghiêng khung thép. Ngay sau đó, công trình được khôi phục lại.

Nhưng sự kiện ấy cho thấy những yêu cầu mới đang đặt ra cho chợ Đồng Xuân thời bấy giờ: phải đủ bền vững để thích ứng với thời tiết khắc nghiệt, đồng thời đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của một Hà Nội đang bước vào quá trình Âu hóa.

Từ khung thép cũ đến ngôi chợ mới

Thực tế, dù đã lên kế hoạch nhưng suốt thập niên đầu thế kỷ 20, dãy nhà thứ năm của Đồng Xuân vẫn chưa được xây dựng. Điều này đến từ việc sắt thép thời chiến khan hiếm và đắt đỏ, do vậy thành phố phải tìm giải pháp linh hoạt.

Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa" - Ảnh 1.

Bên trong chợ Đồng Xuân năm 1895 (phía sau là cái ao chưa lấp)

Khảo cứu của chuyên gia Đỗ Hoàng Anh (Trưởng phòng Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I) cho thấy, vào năm 1917, một kế hoạch táo bạo được đưa ra: xóa bỏ chợ Lợn (ở phố Đường Thành), tháo dỡ toàn bộ khung thép và vận chuyển sang Đồng Xuân để dựng dãy chợ mới. Đồng thời, chợ Gạo (Marché des Graines ở Quảng trường Thương mại) cũng bị xóa bỏ để quy hoạch thành quảng trường công cộng, còn phần khung sắt được tái sử dụng cho các công trình khác.

Tại phiên họp tháng 5/1917, Hội đồng thành phố thông qua kế hoạch mở rộng chợ Đồng Xuân với 5 dãy nhà khung thép, diện tích 6.800 m², cùng mặt tiền bằng gạch với 5 vòm lớn. Tổng kinh phí ước tính 25.000 đồng bạc, cộng thêm 15.000 đồng bạc cho các hạng mục như mở rộng lối đi, cải thiện vệ sinh và thiết lập chỗ ở cho nhân viên bảo vệ.

Cuối năm 1917, dự án hoàn thành, chợ Đồng Xuân chính thức mang diện mạo mới với 5 dãy nhà vòm theo kiến trúc Pháp, mặt tiền gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ tổ ong, mái lợp tôn. Công trình giúp chợ trở nên vững chãi, hiện đại và xứng tầm với vị thế trung tâm buôn bán lớn nhất Bắc Kỳ bấy giờ.

Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa" - Ảnh 2.

Chợ Đồng Xuân vào thập niên 1920. Ảnh TL

Song song, trong thập niên 1920, thành phố tiếp tục mở rộng phố Hàng Khoai lên 12 mét, trưng dụng thêm phần đất thuộc quyền sở hữu của doanh nhân Bạch Thái Bưởi. Đồng thời, để mở rộng chợ, khu đất số 316 rộng 10.000m² - vốn là Xưởng dệt Bourgouin (một trong những cơ sở công nghiệp Pháp đầu tiên tại Hà Nội, về sau nhập vào Nhà máy Sợi Bắc Kỳ) - cũng được trưng mua với giá 90.000 đồng bạc. Từ thời điểm này, cái tên "Bắc Qua" - phiên âm dân gian của Bourgouin - được người Hà Nội nhắc tới nhiều.

Từ những lần quy hoạch đó, các phố quanh chợ như Tubercules (nay là Hàng Khoai), Jean Dupuis (nay là Hàng Chiếu), ngõ Thanh Hà… tiếp tục được mở rộng, chỉnh trang. Đồng thời, nhiều đình, chùa quanh chợ cũng dần lặng lẽ thu hẹp, nhường chỗ cho nhịp sống buôn bán.

Tới năm 1930, tường rào kiên cố được dựng lên, đánh dấu bước hoàn thiện quan trọng, biến Đồng Xuân trở thành trung tâm thương mại sầm uất nhất Hà Nội. Người buôn bán hay người đi chợ có thể đi tàu điện, xe kéo hoặc gồng gánh bộ hành để tới đây. Riêng phía cổng chợ cũng là ga tàu điện, rất thuận tiện cho việc đi lại.

Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa" - Ảnh 3.

Chòi dành cho nhân viên canh gác và thu thuế chợ ở chợ Đồng Xuân

Mái tôn và bàn đá

Đáng nói, song song với sự phát triển về kết cấu xây dựng, chợ Đồng Xuân cũng trở thành nơi hình thành và hoàn thiện "văn hóa chợ" của Hà Nội. Nhiều cột mốc và quyết sách quan trọng của chính quyền đô thị thời đó đã phản ánh rõ điều này.

Cụ thể, tháng 8/1901, trong phiên họp của Hội đồng thành phố, Đốc lý Hà Nội đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng nhếch nhác, lộn xộn tại chợ Đồng Xuân - vốn là điểm lui tới quen thuộc của nhiều phụ nữ Âu châu. Khi ấy, những bàn thịt tạm bợ đặt chênh vênh giữa dòng người qua lại không chỉ gây cản trở giao thông mà còn tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh nghiêm trọng.

Trước thực trạng đó, Đốc lý đề xuất thay toàn bộ bàn bán hàng bằng hệ thống quầy thịt cố định, đồng bộ và đảm bảo vệ sinh. Rộng hơn, mô hình cho thuê quầy cũng được nhắc tới với nhiều mục đích: vừa cải thiện điều kiện buôn bán, vừa hoàn vốn đầu tư mà vẫn giữ nguyên các khoản thuế chợ truyền thống. 200 đồng bạc được Hội đồng thành phố nhất trí chi xây dựng khu quầy thịt mới.

Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa" - Ảnh 4.

Bản đồ phạm vi 2 khu vực thu thuế theo quy định quản lý thuế năm 1928 ở Hà Nội, trong đó có chợ Đồng Xuân là trạm thu thuế trung tâm của khu vực phía Bắc. Ảnh: TTLTQG 1

Đến thập niên 1930, chính quyền tiếp tục cho thay thế những chiếc bàn gỗ cũ kỹ bằng bàn đá granite, các gian hàng được lắp kính bảo vệ, còn người bán thịt nướng được trang bị dụng cụ mạ niken.

Bên cạnh đó, vào tháng 4/1906, tám bóng đèn điện tròn được lắp đặt dọc theo các dãy nhà khung thép của chợ - dù từng bị một tờ báo gọi là "sự phung phí khó hiểu" - bởi theo quy định, chợ chỉ hoạt động từ 5 giờ sáng đến 5 giờ chiều (mùa đông còn đóng cửa sớm hơn), nên nhu cầu chiếu sáng gần như không đáng kể.

Nối tiếp, đến tháng 8/1929, chính quyền Hà Nội ban hành một nghị định mới, mở ra chương phát triển tiếp theo của Đồng Xuân. Chợ được xác lập là trung tâm điều phối và thu thuế lớn nhất khu vực phía Bắc, kết nối các trạm vệ tinh từ bến Clémenceau (phố Trần Nhật Duật) đến cầu Doumer, Quán Thánh và Sơn Tây. Dưới quyền Đốc lý, toàn bộ hệ thống này do Tổng quản lý chợ và lò mổ điều hành. Riêng trạm Đồng Xuân có tới hai kiểm soát viên người Pháp và 18 nhân viên bản xứ - đông nhất thành phố.

Hoạt động thu - chi, phát vé, giám sát vệ sinh và an toàn thực phẩm đều được quản lý chặt chẽ. Mỗi miếng thịt đều phải có bảng chỉ dẫn tên bằng cả tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Các gian hàng thịt, đồ chế biến sẵn phải đảm bảo vệ sinh; người bán hàng rong bị cấm hoạt động sau 22h; nông sản từ ngoài không được đưa vào qua cửa sau.

Từ đây, chợ Đồng Xuân không chỉ là không gian buôn bán, mà còn trở thành biểu tượng cho bước chuyển từ chợ dân sinh truyền thống sang mô hình quản trị đô thị kiểu Tây phương - nơi thương mại, trật tự và vệ sinh công cộng được coi là nền tảng của đời sống thị dân.

Chợ Đồng Xuân - "di sản sống" của Hà Nội (kỳ 2): Văn hóa chợ Hà Nội trong dòng chảy "Âu hóa" - Ảnh 5.

Chợ Đồng Xuân nhìn từ trên cao vào giữa thế kỷ XX. Ảnh: ĐHAst

Cũng trong tiến trình đó, khi đô thị Hà Nội ngày càng phát triển, những cải cách về cơ chế quản lý và vận hành chợ tiếp tục được đẩy mạnh.

Điển hình, theo các tư liệu được chia sẻ trong Chợ Đồng Xuân - Không gian ký ức, vào năm 1936, trong nỗ lực hiện đại hóa, chính quyền Hà Nội đề xuất thống nhất tất cả các loại thuế vào một hệ thống thu bằng vé để đảm bảo minh bạch và công bằng. Tại chợ Đồng Xuân, vé có nhiều mệnh giá. Những cánh cổng sắt ở mặt tiền là nơi đặt buồng thu thuế. Mỗi gánh hàng khi bước qua cổng đều phải nhận một tấm vé nhỏ, đổi lấy quyền được đặt chân vào chợ.

Vé được in tại nhà in phố Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền) bằng loại giấy đặc biệt, không thể tái sử dụng sau khi bóc, cũng không thể tẩy xóa. Để ngăn ngừa gian lận (do tình trạng vé giả từng xảy ra, một số đối tượng đã bị bắt và kết án tù), màu sắc vé được thay đổi hàng tháng, mang ký hiệu riêng cho từng ngày.

Giống như các khu chợ lớn khác của Hà Nội đầu thế kỷ 20, những người thu thuế (collecteur) và các viên cai chợ (surveillant) chính là cánh tay nối dài của chính quyền đô thị trong công cuộc quản lý và điều tiết trật tự buôn bán, với mức lương ấn định là 10 đồng bạc mỗi tháng. Họ không được tuyển chọn tùy tiện mà phải trải qua kỳ thi tuyển nghiêm ngặt gồm ba bài: toán, chép chính tả và đọc hiểu tiếng Pháp.

Ngoài ra, cũng như các chợ khác ở Bắc Kỳ, chợ Đồng Xuân tuân thủ Nghị định tháng 12/1936 của Thống sứ Bắc Kỳ: các tiểu thương phải niêm yết giá bán rõ ràng; mọi thay đổi về giá đều phải được chính quyền phê duyệt.

(Còn tiếp)

Chi Mai

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm