Về mặt định lượng, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đặt mục tiêu: Đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm, đóng góp 7% GDP, lực lượng lao động chiếm 6% tổng lao động; đến năm 2045, doanh thu đóng góp 9% GDP, lao động chiếm 8%.

Về mặt định lượng, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đặt mục tiêu: Đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa tăng trưởng bình quân khoảng 10%/năm, đóng góp 7% GDP, lực lượng lao động chiếm 6% tổng lao động; đến năm 2045, doanh thu đóng góp 9% GDP, lao động chiếm 8%.

Theo phân tích của TS Phạm Việt Long, các chỉ tiêu định lượng mà Chiến lược đặt ra có thể xem là những mục tiêu khá "tham vọng", nhưng hoàn toàn phù hợp với xu thế và yêu cầu phát triển hiện nay. Chúng thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc nâng tầm công nghiệp văn hóa thành một ngành kinh tế mũi nhọn.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 1.

So với các văn kiện trước, đây rõ ràng là bước nâng cấp mạnh mẽ: các chỉ tiêu được lượng hóa cụ thể, có tính đo lường, gắn trực tiếp với GDP và thị trường lao động, thay vì chỉ nêu định hướng chung. Đáng chú ý, các con số này tiệm cận với mức đóng góp của công nghiệp văn hóa tại nhiều nước, cho thấy Việt Nam muốn hội nhập ngang tầm khu vực và thế giới.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 2.

MV "Bắc Bling" của Hòa Minzy đã tạo nên cơn sốt trên các nền tảng mạng, đưa hình ảnh văn hóa Việt Nam ra toàn cầu

Việc đặt mục tiêu cao phản ánh niềm tin vào tiềm năng sáng tạo của xã hội, vào sự phát triển mạnh của kinh tế số và năng lực cạnh tranh của các ngành nội dung số, thiết kế, giải trí. Đồng thời, nó cũng tạo áp lực tích cực để các bộ, ngành và địa phương phải cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện thể chế và đào tạo nhân lực.

Như vậy, các chỉ tiêu này vừa thể hiện tầm nhìn mới, vừa đánh dấu sự thay đổi trong tư duy quản lý: Từ "khuyến khích phát triển" sang "đảm bảo hiệu quả kinh tế cụ thể", đưa công nghiệp văn hóa trở thành một trụ cột thực sự của tăng trưởng trong giai đoạn tới.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 3.

Tháng 9/2025, tại Liên bang Nga, ca sĩ Đức Phúc - người Việt Nam đầu tiên bước lên ngôi vị Quán quân Cuộc thi Âm nhạc Quốc tế Intervision 2025 với ca khúc "Phù Đổng Thiên Vương" qua đó giới thiệu đầy tự hào về lịch sử, văn hóa và tâm hồn Việt Nam trong sự chứng kiến của bạn bè năm châu

"Việc Chiến lược lần này đưa các chỉ tiêu cụ thể về "xuất khẩu sản phẩm công nghiệp văn hóa" - tăng trưởng 7%/năm đến 2030 và 9%/năm đến 2045 - cũng cho thấy một bước chuyển mạnh trong cách Nhà nước nhìn nhận vai trò của văn hóa như một ngành kinh tế đối ngoại" - TS Phạm Việt Long phân tích - "Trước đây, xuất khẩu văn hóa thường được hiểu chủ yếu là giao lưu, quảng bá hình ảnh đất nước và trao đổi nghệ thuật. Bây giờ, các chỉ tiêu định lượng khẳng định rằng xuất khẩu văn hóa phải trở thành một hoạt động kinh tế thực thụ, có thị trường, có doanh thu và đóng góp cụ thể vào kim ngạch xuất khẩu quốc gia".

Cũng theo chuyên gia này, điểm thứ hai thể hiện tư duy mới trong Chiến lược nằm ở việc văn hóa được xem như một nguồn lực cạnh tranh quốc tế. Khi thế giới ngày càng coi "sức mạnh mềm" là yếu tố quan trọng để mở rộng thị trường, thu hút du lịch, đầu tư và nâng cao vị thế quốc gia, việc đưa xuất khẩu văn hóa vào chỉ tiêu chiến lược cho thấy Việt Nam muốn chủ động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của kinh tế sáng tạo - từ điện ảnh, thiết kế, nội dung số đến thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật trình diễn.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 5.

"Mưa đỏ" tạo "cơn địa chấn" đúng nghĩa với doanh thu gần 714 tỷ đồng sau một tháng ra rạp

Cùng với đó, việc lượng hóa mục tiêu xuất khẩu cũng tạo động lực để doanh nghiệp sáng tạo hướng ra thị trường quốc tế, đầu tư cho tiêu chuẩn chất lượng, bản quyền, thương hiệu và công nghệ. "Điều đó phản ánh rõ tư duy chuyển từ "văn hóa để giao lưu" sang "văn hóa để tạo giá trị kinh tế và sức mạnh đối ngoại", khẳng định vai trò của công nghiệp văn hóa như một trụ cột trong chiến lược hội nhập của Việt Nam" - TS Phạm Việt Long nói.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 6.

Một điểm rất mới khác: Đến năm 2045, quy mô các sản phẩm công nghiệp văn hóa số được đặt mục tiêu chiếm trên 80% tổng sản phẩm công nghiệp văn hóa. Đặt trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, TS Phạm Việt Long cho rằng: "Đó là một lựa chọn chiến lược rất rõ ràng và phù hợp. Con số này phản ánh sự thừa nhận rằng phần lớn giá trị của công nghiệp văn hóa hiện đại được tạo ra từ các lĩnh vực dựa trên công nghệ số - như nội dung trực tuyến, trò chơi điện tử, phần mềm, thiết kế số, truyền thông số hay các nền tảng phân phối kỹ thuật số. Đây là những ngành có tốc độ tăng trưởng cao, thị trường toàn cầu rộng mở và hàm lượng tài sản trí tuệ lớn.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 7.

Rất nhiều chương trình nghệ thuật lớn kết nối và đưa hình ảnh văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới - Ảnh: BTC chương trình Anh trai say hi

Điểm thứ hai cho thấy Việt Nam chủ động định vị mình trong xu hướng kinh tế sáng tạo mới: Thay vì tập trung nhiều vào các lĩnh vực đòi hỏi hạ tầng vật chất lớn hoặc quy mô sản xuất truyền thống, Chiến lược hướng tới phát triển mạnh các sản phẩm dựa trên tri thức, dữ liệu và công nghệ. Điều này phù hợp với cơ cấu dân số trẻ, năng lực công nghệ đang lên và quy mô thị trường số hóa ngày càng nhanh trong nước.

Về không gian phát triển, Chiến lược nhấn mạnh tổ chức theo các vùng kinh tế trọng điểm, lựa chọn một số địa phương làm trung tâm kết nối, tạo động lực, đồng thời tăng cường liên kết vùng, liên kết hạ tầng và thiết chế văn hóa. TS Phạm Việt Long cho rằng, cách tiếp cận theo "vùng - trung tâm động lực" mà Chiến lược nhấn mạnh cho thấy một bước đổi mới quan trọng so với tư duy phát triển trước đây.

Chương trình nghệ thuật chính luận “Tổ quốc trong tim” nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9

Ông nói: "Trước hết, Chiến lược lựa chọn tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm và xác định một số đô thị, địa phương có lợi thế đặc thù trở thành trung tâm sáng tạo, từ đó lan tỏa và thúc đẩy sự phát triển của cả vùng. Đây là cách tiếp cận mới, xuất phát từ logic của kinh tế sáng tạo - nơi các ngành văn hóa phát triển mạnh nhất tại những "cụm sáng tạo" có hạ tầng, nhân lực, thị trường và môi trường đổi mới thuận lợi".

Điểm mới thứ hai nằm ở tư duy liên kết vùng. Trước đây, các địa phương thường phát triển công nghiệp văn hóa theo hướng riêng lẻ, thiếu kết nối về hạ tầng, chuỗi cung ứng, quảng bá hay thị trường. Nay, Chiến lược yêu cầu xây dựng mạng lưới liên kết giữa các địa phương trong vùng, đặc biệt là liên kết về không gian sáng tạo, logistics văn hóa, hạ tầng số và các thiết chế văn hóa hiện đại. Điều này giúp tránh trùng lặp, tạo sức mạnh cộng hưởng và hình thành thị trường đủ lớn để các doanh nghiệp sáng tạo hoạt động hiệu quả.

Chiến lược mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam (kỳ 2): Bước nâng cấp đầy mạnh mẽ  - Ảnh 11.

Cuối cùng, việc xác định các trung tâm động lực phản ánh tư duy phát triển dựa trên lợi thế so sánh. Mỗi vùng, mỗi đô thị sáng tạo được lựa chọn vì có những thế mạnh riêng - tài nguyên văn hóa, nguồn nhân lực, ngành nghề truyền thống hoặc hạ tầng công nghệ. Điều này thể hiện sự chuyển đổi gắn với phát triển theo cực tăng trưởng, giúp công nghiệp văn hóa phát triển nhanh, thực chất và phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

(Còn nữa)

Phạm Huy
Thông tấn xã Việt Nam
Thể thao và Văn hóa
09/12/2025 18:00