Ngày 19/11 vừa qua, Cục Bản quyền tác giả (Bộ VHTTDL) phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tổ chức cuộc họp giới thiệu mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO. Tại đây, ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và ngành Công nghiệp Sáng tạo của WIPO đã trình bày ghi chú khái niệm về Mô hình Dữ liệu Kinh tế Sáng tạo (Creative Economy Data Model - CEDM), một khung tiếp cận mới để đo lường và đánh giá hệ sinh thái sáng tạo, trong đó quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền tác giả, được coi là trụ cột quan trọng.

Ngày 19/11 vừa qua, Cục Bản quyền tác giả (Bộ VHTTDL) phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tổ chức cuộc họp giới thiệu mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO. 

Tại đây, ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và ngành Công nghiệp Sáng tạo của WIPO đã trình bày ghi chú khái niệm về Mô hình Dữ liệu Kinh tế Sáng tạo (Creative Economy Data Model - CEDM), một khung tiếp cận mới để đo lường và đánh giá hệ sinh thái sáng tạo, trong đó quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là quyền tác giả, được coi là trụ cột quan trọng.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 1.

Trong phần trình bày, ông Gantchev Dimiter cho biết các ngành công nghiệp sáng tạo ngày càng thu hút sự quan tâm trên thế giới, từ góc độ chính sách, xã hội đến học thuật. Nhiều quốc gia lựa chọn tăng trưởng dựa trên sáng tạo nhằm khai thác tối đa tiềm năng sáng tạo; ở những nước khác, sáng tạo trở thành biểu tượng của "quyền lực mềm". Trong một thị trường toàn cầu kết nối chặt chẽ và biến động nhanh, sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp được nhìn nhận là phương thức mới để nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy tăng trưởng và khẳng định bản sắc quốc gia.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 2.

Quang cảnh cuộc họp giới thiệu mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO

Tuy nhiên, theo ông Dimiter, các nghiên cứu thực nghiệm về kinh tế sáng tạo cho đến nay phần lớn vẫn dựa trên những thước đo đầu ra - như quy mô ngành, doanh thu, số lượng sản phẩm - nên chỉ mang lại những câu trả lời một phần cho các câu hỏi cốt lõi: làm thế nào cải thiện điều kiện cho kinh tế sáng tạo, biến nó thành động lực tăng trưởng, và quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò gì trong tiến trình đó. 

Những chỉ số đầu ra này không phản ánh được nguyên nhân và điều kiện nền tảng tạo ra chúng, không làm rõ chiều cạnh bền vững của phát triển sáng tạo, cũng như chưa tính đến sự tương tác phức tạp giữa bối cảnh thể chế và nguồn lực. Vì vậy, các chính sách chỉ dựa trên dữ liệu đầu ra thường có hiệu quả hạn chế khi phải giải quyết vấn đề mang tính hệ thống hoặc khi gắn kết sáng tạo với phúc lợi và chất lượng cuộc sống.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 4.

Ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và ngành Công nghiệp Sáng tạo của WIPO đã trình bày ghi chú khái niệm về Mô hình Dữ liệu Kinh tế Sáng tạo

Trước bối cảnh đó, WIPO đã xây dựng Mô hình Dữ liệu Kinh tế Sáng tạo (CEDM) nhằm tiếp cận kinh tế sáng tạo như một hệ sinh thái. Ghi chú khái niệm nhấn mạnh, sáng tạo là hiện tượng ở cấp độ vi mô nhưng thường phát triển mạnh trong những hệ thống kinh tế nơi các chủ thể và yếu tố phụ thuộc lẫn nhau cùng tạo điều kiện cho giá trị mới hình thành. Những hệ thống mà giá trị dựa trên các phẩm chất mới, giàu tính tưởng tượng được gọi là "hệ sinh thái sáng tạo". Các hệ sinh thái này có tỷ lệ lớn ngành công nghiệp sáng tạo, song quan trọng hơn là sự lan tỏa của sáng tạo trong toàn bộ nền kinh tế, đóng góp cho phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 5.

Ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và ngành Công nghiệp Sáng tạo của WIPO đã trình bày ghi chú khái niệm về Mô hình Dữ liệu Kinh tế Sáng tạo

Sự chuyển dịch từ cách tiếp cận "các ngành công nghiệp sáng tạo" sang "nền kinh tế sáng tạo" và tư duy "hệ sinh thái sáng tạo" phản ánh nhận thức ngày càng cao về các mối phụ thuộc mang tính hệ thống làm nền tảng cho năng suất sáng tạo và đổi mới. Tư duy hệ sinh thái không chỉ đòi hỏi các chỉ số đo lường mới, mà còn yêu cầu một logic giải thích mới: ưu tiên tính phụ thuộc lẫn nhau, phi tuyến tính và tính phức hợp, thay vì chỉ xem xét các đầu ra riêng lẻ. Trong logic này, dữ liệu về thể chế, hạ tầng, vốn, nhân lực, giá trị văn hóa, mạng lưới… trở nên quan trọng không kém gì các con số về doanh thu hay sản phẩm.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 6.

CEDM được cấu trúc quanh ba nhóm chiều cạnh: Môi trường (Environment), Nguồn lực (Resources) và Đầu ra – kết quả (Outputs and Outcomes). Môi trường bao gồm các điều kiện thể chế, xã hội, văn hóa và chính sách định hình bối cảnh cho hoạt động sáng tạo. Nguồn lực là các đầu vào hữu hình và vô hình thiết yếu cho sản xuất sáng tạo và đổi mới như kiến thức, nhân tài, kỹ năng, lãnh đạo; hạ tầng; tài chính; sản phẩm, dịch vụ trung gian; và nhu cầu thị trường. Đầu ra và kết quả là các sản phẩm sáng tạo có thể đo lường, cùng những kết quả kinh tế, xã hội và văn hóa phát sinh từ sự tương tác giữa môi trường và nguồn lực.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 7.

Ông Gantchev Dimiter, Trưởng phòng Bản quyền và ngành Công nghiệp Sáng tạo của WIPO

Quy trình đo lường CEDM gồm hai phần chính: Chẩn đoán quốc gia (National Diagnostics) và Chỉ số Hệ sinh thái sáng tạo (Creative Ecosystem Index). Chẩn đoán quốc gia tập trung vào việc thu thập dữ liệu chuỗi thời gian ở cấp quốc gia, phân loại thành các yếu tố đầu vào và đầu ra của hệ sinh thái sáng tạo, nhằm cấu trúc lại các dữ liệu rời rạc thành bức tranh có ý nghĩa. Chỉ số Hệ sinh thái sáng tạo là chỉ số tổng hợp về các yếu tố đầu vào thúc đẩy đầu ra sáng tạo, đòi hỏi dữ liệu có khả năng so sánh, phân tầng theo đơn vị không gian (vùng, địa phương) để xem xét hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO: Kinh nghiệm cho phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam - Ảnh 8.

Ở phần "lộ trình phía trước", ghi chú khẳng định rằng, bằng cách thiết kế các chỉ báo phù hợp với cách tiếp cận hệ sinh thái và nhu cầu chính sách thực tế, CEDM có thể cung cấp nền tảng cho quản trị dựa trên bằng chứng, cho các can thiệp có mục tiêu và hoạch định chiến lược trong lĩnh vực kinh tế sáng tạo. WIPO đang thí điểm khung CEDM tại nhiều khu vực và mời các quốc gia thành viên hợp tác phát triển đường chuẩn quốc gia, thử nghiệm chỉ số, đào tạo nhóm phân tích hệ sinh thái. 

Cách tiếp cận dựa trên quan hệ đối tác này nhằm bảo đảm rằng các chính sách về sáng tạo được dẫn dắt bởi những công cụ được thiết kế cho sự phức tạp, tính bao trùm và khả năng đo lường tác động.

Festival Thăng Long - Hà Nội 2025 (1-16/11/2025), góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô

Tại cuộc họp, bên cạnh phần giới thiệu CEDM, các đại biểu Việt Nam cũng chia sẻ về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Trong bối cảnh công nghiệp văn hóa toàn cầu tăng trưởng mạnh, công nghệ số mở rộng quy mô và tốc độ lan tỏa sản phẩm văn hóa, Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên văn hóa phong phú nhưng khai thác chưa tương xứng. 

Chiến lược đặt mục tiêu đưa công nghiệp văn hoá trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp đáng kể cho GDP, hình thành hệ sinh thái sáng tạo hiện đại, đồng bộ, liên kết vùng; phát triển mạnh hạ tầng văn hóa – nghệ thuật – giải trí; nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm văn hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO có thể nói là khung đo lường mới cho công nghiệp văn hóa Việt Nam

Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam chủ động nghiên cứu mô hình dữ liệu kinh tế sáng tạo của WIPO được kỳ vọng sẽ hỗ trợ thiết thực cho việc đo lường đúng, trúng đóng góp của kinh tế sáng tạo và công nghiệp văn hóa, nhận diện chính xác các nút thắt trong hệ sinh thái sáng tạo, từ đó hoạch định chính sách phù hợp, phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của con người và tài nguyên văn hóa Việt Nam.

Phạm Huy
Thông tấn xã Việt Nam
Thể thao và Văn hóa
20/11/2025 15:00