Chiến lược công nghiệp văn hóa: Bước đi trong kỷ nguyên kinh tế sáng tạo

02/12/2025 20:41 GMT+7 | Văn hoá

Trong bối cảnh công nghiệp văn hóa trở thành động lực tăng trưởng mới của nhiều nền kinh tế trên thế giới, việc Việt Nam mới ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây được xem là bước đi cần thiết để nâng cao vị thế của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.

Lan tỏa bản sắc Việt và tăng giá trị kinh tế

Theo Nghệ sĩ Nhân dân Vương Duy Biên, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển Công nghiệp Văn hóa Việt Nam, "Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mở ra một tầm nhìn dài hạn nhằm đưa văn hóa trở thành ngành kinh tế sáng tạo có sức cạnh tranh, đóng góp bền vững cho tăng trưởng và khẳng định vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa toàn cầu. Chiến lược lần này đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy phát triển: từ chỗ coi văn hóa chủ yếu là lĩnh vực tinh thần sang cách tiếp cận văn hóa như một nguồn lực kinh tế, một ngành công nghiệp dựa trên sáng tạo, tri thức, công nghệ và giá trị bản quyền".

Chiến lược công nghiệp văn hóa: Bước đi trong kỷ nguyên kinh tế sáng tạo - Ảnh 1.

Ông Vương Duy Biên, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển công nghiệp văn hoá Việt Nam phát biểu nhận nhiệm vụ. Ảnh: Thành Phương - TTXVN

Nghệ sĩ Nhân dân Vương Duy Biên cho rằng Đảng, Nhà nước đã nghiên cứu rất kỹ, rất cụ thể vấn đề trên; xác định được các vấn đề cốt lõi, đó là sáng tạo, bản sắc, lan tỏa và tạo điều kiện cho nhân tài phát huy, cống hiến. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa cũng hướng tới việc tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, nuôi dưỡng tài năng và khuyến khích đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa; kết nối các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong ngành để tăng cường hợp tác, chia sẻ nguồn lực, hỗ trợ phát triển sản phẩm và thị trường. Bên cạnh đó, cần quan tâm hơn công tác tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực quản trị, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phát huy hơn nữa tính sáng tạo và hội nhập quốc tế, khẳng định văn hóa như một sức mạnh mềm của đất nước.

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Tung, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ) cho biết: “Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam là bước đột phá trong tiến trình phát triển bền vững đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế. Chiến lược đã đưa ra mục tiêu, giải pháp rõ ràng, huy động mạnh mẽ sức sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ tích cực sáng tạo phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là động lực thúc đẩy sự đổi mới tư duy sáng tạo, nâng cao chất lượng sáng tác để có những tác phẩm có giá trị, tương xứng với sự phát triển đất nước. Đây cũng là công cụ mềm để quảng bá giá trị văn hóa, con người, đất nước Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời không ngừng hoàn thiện thể chế, chính sách đầu tư, cải thiện đời sống văn nghệ sĩ. Đó còn là nền tảng phát triển nền văn hóa bền vững, giàu bản sắc Việt Nam”.

Việc xác định 10 ngành công nghiệp văn hóa chủ chốt, từ điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa đến phần mềm và trò chơi giải trí, đã cho thấy một tầm nhìn toàn diện. Thay vì khai thác tài nguyên vật chất, Chiến lược nhấn mạnh khai thác “tài nguyên mềm”: sáng tạo, trí tuệ, bản sắc dân tộc, giá trị văn hóa và quyền sở hữu trí tuệ. Đây chính là phương thức tăng trưởng bền vững mà các nền kinh tế phát triển đang theo đuổi.

Chiến lược công nghiệp văn hóa: Bước đi trong kỷ nguyên kinh tế sáng tạo - Ảnh 2.

Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ảnh: TTXVN

Như vậy, công nghiệp văn hóa không còn là lĩnh vực “phụ trợ”, mà được đặt vào vị trí chiến lược ngang hàng với các ngành kinh tế mũi nhọn khác. Mục tiêu đề ra đến năm 2030 là đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm, đóng góp 7% GDP, đến năm 2045 hướng đến mức đóng góp 9% GDP.

Một ý nghĩa quan trọng khác của Chiến lược là thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm công nghiệp văn hóa, từ đó lan tỏa giá trị văn hóa Việt Nam ra toàn cầu. Việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu không chỉ mang lại nguồn thu ngoại tệ, còn góp phần xây dựng sức mạnh mềm của Việt Nam.

Trong bối cảnh các sản phẩm văn hóa như phim ảnh Hàn Quốc, âm nhạc Nhật Bản hay nghệ thuật trình diễn Trung Quốc đã trở thành công cụ quảng bá quốc gia hiệu quả, Việt Nam cần có chiến lược mạnh mẽ để đưa các sản phẩm mang bản sắc Việt bước ra thế giới. Công nghiệp văn hóa mạnh sẽ giúp Việt Nam được nhận diện rộng rãi trên bản đồ văn hóa thế giới, không chỉ qua di sản vật thể và phi vật thể, mà còn qua những sản phẩm sáng tạo hiện đại.

Chiến lược công nghiệp văn hóa: Bước đi trong kỷ nguyên kinh tế sáng tạo - Ảnh 3.

Xây dựng lực lượng lao động và hệ sinh thái công nghiệp văn hóa

Bà Nguyễn Thị Thanh Vĩnh, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ) cho rằng: Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam có một ý nghĩa rất quan trọng, mang tính chiến lược, cho thấy quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta trong việc đưa công nghiệp văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần xây dựng, phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Điều này phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển toàn cầu.

Việc triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược là một cách tiếp tục hiện thực hóa Nghị quyết của Đảng từng chỉ rõ: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội". Theo đó, không chỉ góp phần phát triển và đưa công nghiệp văn hóa -một loại hình "công nghiệp xanh", "công nghiệp không khói" -trở thành một ngành kinh tế quan trọng, bền vững cho đất nước, mà còn giúp khẳng định bản sắc Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam, trí tuệ Việt, sức mạnh mềm Việt Nam với thế giới. Từ đó, nâng cao sức hút, sự cạnh tranh mang đặc trưng Việt Nam; đồng thời quảng bá, lan tỏa hình ảnh Việt Nam, thúc đẩy đất nước phát triển bền vững trong giai đoạn mới, trước nhiều thách thức mới.

Việc triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược còn tựa như một "cú hích", thúc đẩy nỗ lực đổi mới, sáng tạo, khát khao vươn tới tương lai tốt đẹp của mọi người dân Việt Nam; qua đó, đẩy mạnh việc phát triển hệ sinh thái văn hóa tương tác và cùng có lợi. Bên cạnh đó, việc thực hiện hiệu quả Chiến lược còn là giải pháp căn cơ góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy bản sắc Việt, các giá trị văn hóa truyền thống Việt trước những nguy cơ mới; đồng thời đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần ngày càng cao của nhân dân - bà Nguyễn Thị Thanh Vĩnh chia sẻ.

Chiến lược đề ra mục tiêu quan trọng: đến năm 2030, lực lượng lao động trong ngành công nghiệp văn hóa tăng bình quân 10%/năm, chiếm 6% tổng lao động xã hội. Tầm nhìn đến năm 2045, con số này sẽ đạt 8%, phản ánh vai trò ngày càng lớn của lao động sáng tạo trong nền kinh tế. Ý nghĩa của điều này không chỉ nằm ở việc tạo thêm việc làm, mà quan trọng hơn là tạo động lực phát triển nguồn nhân lực sáng tạo- một yếu tố cốt lõi của công nghiệp văn hóa.

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là văn kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tư duy phát triển mới của Chính phủ. Đây là bước đi cần thiết và kịp thời để Việt Nam nâng cao vị thế văn hóa, kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa; đồng thời hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nguyễn Trọng Lịch/TTXVN

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm