Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cho thấy chuyển đổi số, công nghiệp văn hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa đang được xác định là ba trụ cột mới trong chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập - vừa mang tính kế thừa, vừa có tính đột phá, mở ra hướng phát triển văn hóa năng động, sáng tạo và bền vững trong kỷ nguyên số.

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cho thấy chuyển đổi số, công nghiệp văn hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa đang được xác định là ba trụ cột mới trong chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập - vừa mang tính kế thừa, vừa có tính đột phá, mở ra hướng phát triển văn hóa năng động, sáng tạo và bền vững trong kỷ nguyên số.

Cách đặt vấn đề này cho thấy bước tiến lớn trong tư duy phát triển văn hóa của Đảng ta, phù hợp xu thế toàn cầu hóa và nền kinh tế sáng tạo hiện nay.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 1.

Theo TS Nguyễn Tiến Thư (Phó Viện trưởng Viện Văn hoá và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), một trong những điểm mới nổi bật của Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV là nhấn mạnh vai trò của công nghệ số và công nghiệp văn hóa như những động lực then chốt cho phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.

Dự thảo Văn kiện xác định rõ nhiệm vụ: "Đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng và quản lý tốt môi trường văn hóa; phát triển và quản lý có hiệu quả thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa số".

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 2.

"Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên thuật ngữ "văn hóa số" xuất hiện trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng, thể hiện bước chuyển nhận thức quan trọng của Đảng ta về môi trường văn hóa trên không gian mạng - nơi đang tác động sâu sắc đến đời sống tinh thần, nhận thức và hành vi xã hội" - TS Thư phân tích - "Việc đề cập đến yêu cầu quản lý và định hướng các nền tảng truyền thông số, mạng xã hội, ứng dụng nội dung sáng tạo cho thấy Đảng chủ trương xây dựng môi trường văn hóa số lành mạnh, nhằm lan tỏa giá trị tích cực, ngăn chặn thông tin xấu độc, bảo vệ nền tảng tư tưởng và bản sắc văn hóa dân tộc trong không gian mạng toàn cầu".

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 3.

Cùng với quá trình chuyển đổi số, phát triển mạnh mẽ công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa được xác định là một chủ trương mang tính đột phá. Dự thảo Văn kiện nêu rõ nhiệm vụ: "Phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân".

"So với các kỳ Đại hội trước, đây là bước tiến lớn trong tư duy phát triển văn hóa: văn hóa không chỉ là lĩnh vực đầu tư của Nhà nước, mà còn một khu vực kinh tế sáng tạo, có khả năng đóng góp trực tiếp cho GDP, tạo việc làm và thúc đẩy tăng trưởng bền vững" - TS Thư nhấn mạnh.

Mặt khác, việc nhấn mạnh phát triển thị trường văn hóa và dịch vụ văn hóa cho thấy Đảng ta đã chủ động tiếp cận văn hóa dưới góc độ kinh tế tri thức và sáng tạo, hướng tới xây dựng ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đủ mạnh, hội nhập quốc tế, có sức cạnh tranh và bản sắc riêng.

Quan điểm này phù hợp với Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, trong đó đặt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đạt khoảng 7% GDP vào năm 2030. Điều đó khẳng định công nghiệp văn hóa đang được định vị là một trụ cột của nền kinh tế sáng tạo, đồng thời là nguồn lực mới thúc đẩy phát triển văn hóa, con người và hình ảnh quốc gia Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 4.

Bên cạnh đó, Dự thảo Văn kiện cũng nhấn mạnh yêu cầu chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế về văn hóa, coi đây là một phương thức quan trọng để gia tăng "sức mạnh mềm" quốc gia. Chủ trương: "Chủ động, tích cực hợp tác, quảng bá hình ảnh đất nước, giá trị văn hoá và con người Việt Nam ra thế giới" thể hiện rõ định hướng ngoại giao văn hóa gắn với quảng bá bản sắc dân tộc, xây dựng thương hiệu quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế.

Quan điểm này kế thừa và phát triển đường lối hội nhập văn hóa từ các kỳ Đại hội trước, song được diễn đạt mạnh mẽ, cụ thể hơn, phù hợp với bối cảnh Việt Nam chủ động tham gia các công ước văn hóa quốc tế, đồng thời tận dụng các cơ chế hợp tác và giao lưu văn hóa để quảng bá giá trị Việt Nam, nâng cao uy tín và vị thế đất nước trong khu vực và trên thế giới.

Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam cũng chỉ rõ định hướng nhiệm vụ giải pháp: "Phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của Nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và truyền bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Mở rộng giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu. Tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài, các tổ chức quốc tế đầu tư trí tuệ, nguồn lực, tham gia phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam".

Như phân tích, TS Thư cho rằng, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV cho thấy chuyển đổi số, công nghiệp văn hóa và hội nhập quốc tế về văn hóa đang được xác định là ba trụ cột mới trong chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập - vừa mang tính kế thừa, vừa có tính đột phá, mở ra hướng phát triển văn hóa năng động, sáng tạo và bền vững trong kỷ nguyên số.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 5.

Đồng quan điểm, PGS-TS Phạm Duy Đức (nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) nhấn mạnh, Dự thảo đã nêu yêu cầu "phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân". So với các văn kiện trước, đây là bước tiến lớn về tư duy thể chế hóa kinh tế văn hóa.

"Đảng không chỉ khẳng định công nghiệp văn hóa là một ngành kinh tế mới, mà còn coi đó là kênh chuyển hóa các giá trị tinh thần thành giá trị vật chất, góp phần gia tăng sức mạnh mềm quốc gia và mở rộng không gian sáng tạo của con người Việt Nam" - ông Đức phân tích - "Đảng đã chuyển từ tư duy "quản lý văn hóa" sang "quản trị phát triển văn hóa", nhấn mạnh hiệu lực của chính sách, năng lực của đội ngũ, tính tự chủ của chủ thể và vai trò điều tiết của thị trường. Đây là những bước chuyển căn bản về lý luận quản lý văn hóa trong thời kỳ công nghiệp sáng tạo và toàn cầu hóa".

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 6.

Việc Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đề ra yêu cầu phát triển văn hóa số lành mạnh, đồng thời khuyến khích sáng tạo các sản phẩm công nghiệp văn hóa - coi đây vừa là ngành kinh tế, vừa là công cụ lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc - cho thấy tầm nhìn dài hạn của Đảng ta trong việc gắn kết giữa phát triển văn hóa và phát triển kinh tế sáng tạo trong bối cảnh chuyển đổi số.

Tuy nhiên, để tầm nhìn này trở thành hiện thực, theo các chuyên gia, cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh, đủ cụ thể, giúp chuyển hóa các định hướng chiến lược thành hành động thực tiễn.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 7.

Cụ thể, TS Nguyễn Tiến Thư cho rằng, Dự thảo cần làm rõ định hướng phát triển văn hóa trong kỷ nguyên số. Dự thảo đã đề cập đến nhiệm vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, song cần nhấn mạnh hơn yêu cầu xây dựng văn hóa số và quản trị không gian mạng. "Cần bổ sung định hướng: phát triển môi trường văn hóa số lành mạnh, quản lý hiệu quả các nền tảng truyền thông mới, đồng thời chủ động ứng dụng công nghệ số để quảng bá văn hóa dân tộc" - ông đề xuất.

Mặt khác, trước thực trạng các trào lưu lệch chuẩn, phản văn hóa trên mạng xã hội đang tác động tiêu cực đến lối sống, đặc biệt là giới trẻ, Dự thảo Văn kiện cần đề ra giải pháp cụ thể như: hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng; nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ số; tăng cường giáo dục kỹ năng số và năng lực thẩm định thông tin cho công dân.

TS Nguyễn Tiến Thư cũng nhấn mạnh, trong Dự thảo cần xác định phát triển công nghiệp văn hóa gắn với cơ chế, chính sách cụ thể. Theo đó, cần làm rõ hơn các điều kiện để công nghiệp văn hóa trở thành động lực kinh tế quan trọng.

Theo ông, hiện nay, lĩnh vực này còn gặp nhiều rào cản về thể chế, thị trường và cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, Dự thảo Văn kiện nên bổ sung định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế trong văn hóa, tạo môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực xã hội. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp văn hóa (thiết kế sáng tạo, điện ảnh, quảng cáo, du lịch văn hóa, truyền thông - giải trí…), cũng như khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, hình thành hệ sinh thái hỗ trợ tài năng trẻ phát triển bền vững.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 8.

PGS-TS Bùi Hoài Sơn (Ủy viên chuyên trách Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội) cũng cho rằng, Dự thảo Văn kiện cần có chính sách mạnh mẽ hơn cho phát triển văn hóa số và công nghiệp văn hóa.

Theo ông, Dự thảo Văn kiện đã đề cập văn hóa số và công nghiệp văn hóa, song vẫn còn chung chung. Trong bối cảnh mạng xã hội đang trở thành "không gian sinh hoạt chính" của giới trẻ, cần có một bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng để hình thành chuẩn mực mới, đồng thời khuyến khích sáng tạo các nội dung tích cực.

Với công nghiệp văn hóa, Dự thảo Văn kiện nên xác định rõ những ngành ưu tiên (phim ảnh, âm nhạc, thiết kế, thời trang, trò chơi trực tuyến, du lịch văn hóa…) và đưa ra cơ chế hỗ trợ cụ thể như tín dụng, thuế, bảo hộ bản quyền, hạ tầng số. Nếu không, khái niệm công nghiệp văn hóa sẽ chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, khó trở thành động lực thực sự.

Ngoài ra, PGS-TS Bùi Hoài Sơn cũng nhấn mạnh yêu cầu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nhất là trên không gian mạng. Thế hệ trẻ hôm nay trưởng thành trong không gian số, vì vậy nếu không có môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh trên mạng xã hội thì khó có thể hình thành chuẩn mực con người mới.

Theo ông, cần sớm triển khai thực thi tốt hơn nữa bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng, kết hợp biện pháp pháp lý, công nghệ và giáo dục để bảo vệ giới trẻ khỏi tin giả, nội dung độc hại, đồng thời khuyến khích sáng tạo nội dung tích cực mang bản sắc Việt Nam. Song song với đó là phát triển nền tảng số quốc gia, tạo "sân chơi" cho các sản phẩm công nghiệp văn hóa Việt Nam cạnh tranh công bằng.

TS Nguyễn Văn Thắng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) khẳng định, hiểu theo nghĩa rộng, công nghệ số, chuyển đổi số không chỉ là khoa học, công nghệ, cách vận hành, là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững, mà còn là văn hóa - văn hóa số.

"Do đó, "đẩy mạnh chuyển đổi số,…, phát triển và quản lý có hiệu quả thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa số" tiếp tục là nhiệm vụ có tính thời sự, vừa là thời cơ vàng, vừa là thách thức lớn. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết số 57 NQ/TW, Nghị quyết số 71-NQ/TW, Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị, chắc chắn sẽ giải quyết được vấn đề này" - ông nhấn mạnh.

Làm rõ những quan điểm mới của Đảng về văn hóa (Kỳ 3): Xác định động lực mới từ chuyển đổi số và công nghiệp văn hóa - Ảnh 9.

Ngoài ra, TS Thắng cũng chỉ rõ, Việt Nam có cả một kho "tài nguyên văn hóa" khổng lồ, quý giá hơn vàng, rất nhiều lợi thế, dân số đông và trẻ, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, di sản thiên nhiên thế giới, danh lam thắng cảnh phong phú, đặc sắc thuộc nhóm hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng, thế giới nói chung; công nghệ thông tin phát triển rất nhanh, hiện tại đã có 3 thành phố sáng tạo của UNESCO. 

Theo ông, lợi thế sẽ mất đi, tiềm năng chưa phát huy được và lại tụt hậu nếu chần chừ và manh mún, vì vậy rất cần một chiến lược mới mang tính đột phá để phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa không chỉ nhằm mục đích kinh tế, mà còn nhằm mục đích xã hội, quảng bá hình ảnh và vị thế quốc gia của Việt Nam ra thế giới.

(Còn tiếp)

Công Bắc
TTXVN
Thể thao và Văn hóa