Cối giã gạo nước và đời sống của người Tày

03/05/2014 14:31 GMT+7 | Văn hoá


(Thethaovanhoa.vn) - Từng rất phổ biến ở các dân tộc miền núi trước đây, đến năm 2012, qua khảo sát, những cọn nước chỉ còn sót lại ở rất ít vùng.

Lợi dụng sức nước để tiện cho đời sống, một số dân tộc miền núi từ lâu đã làm, như guồng nước, cối giã gạo nước, máng tre dẫn nước của các sắc tộc Mường, Thái ở Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hóa. Những năm 2012, chúng tôi đã đi khảo sát những vùng còn dùng guồng (cọn) nước thì cho đến nay hiện còn hai khu vực là Kim Bôi, Hòa Bình và Bá Thước, Thanh Hóa. Chắc chắn còn vài khu vực khác mà chúng ta chưa biết đến, nhưng những công cụ cổ xưa này thường gắn với những nơi xa, điều kiện phát triển chưa cao và người dân yêu thích những gì gần gũi với tự nhiên, chứ họ đều đã biết đến máy bơm hay máy xay xát. Ở đây cần nhìn thấy mặt trái của phát triển, không phải cứ phát triển là hay, nếu điều kiện còn cho phép sử dụng guồng dẫn nước tưới tiêu và sinh hoạt thì vẫn tốt hơn là dùng máy bơm tốn điện và dầu, trong khi guồng nước không tốn gì cả, ngoài ít tre làm guồng quay và tu sửa, cũng không hề phải trông nom. Và tất nhiên là giữa cánh đồng xung quanh núi non điệp trùng, những guồng nước quay là cảnh rất thơ mộng.


Phụ nữ ở làng Càng giã gạo, ký họa chì của Nguyễn Thụ, năm 1957

Cối giã gạo bằng sức nước được sắc tộc Tày, Thái, Mường thiết kế tương đối giống nhau, chỉ là một cần cối vừa phải, chỗ chân đạp khoét rỗng như một lòng máng để nước đổ đầy vào đó. Khi nước đầy sẽ nâng cần cối lên, nước chảy ra hết cần cối hạ xuống và giáng chày vào cối gỗ để gạo phía trước, rồi lại nâng lên bởi nước đầy, cứ thế cả ngày cả đêm giã liên tục, với nhịp điệu thưa tiếng nhẹ, mỗi ngày chỉ có thể đem lại một cối gạo bằng một rá nhỏ, đủ cho gia đình ăn. Những cối đó thường được đặt ngoài đồng, gần suối, nơi có dòng nước chảy từ cao xuống thấp. Để nắng mưa không ảnh hưởng đến gạo người ta thường làm thêm căn lều nhỏ che cối ngoài trời. Trong những ký họa và ghi chép thực tế của họa sĩ Nguyễn Thụ, chúng tôi tìm thấy một bức vẽ cối giã gạo nước ở Vũ Lăng, Bắc Sơn, một huyện miền núi của Lạng Sơn. Bức họa vẽ hai cái cối giã gạo nước đặt bên suối giữa bạt ngàn rừng núi, bức họa còn ghi ngày 11/8/1964. Công cụ cổ xưa này chính là một thứ năng lượng xanh mà nhân loại bây giờ đang hướng tới.


Đồ vật trong nhà người Tày, ký họa màu nước của Nguyễn Thụ năm 1957

Bị xếp vào loại “công cụ cổ xưa” nhưng lại chính là một thứ năng lượng xanh mà nhân loại bây giờ đang hướng tới
Hai bức ký họa khác của Nguyễn Thụ vẽ bên trong căn nhà người Tày cho thấy rõ những dụng cụ làm gạo xa xưa, bên cạnh cối giã gạo nước. Người phụ nữ cầm chày giã gạo hay ngô trong cối gỗ, xung quanh là các bồ đựng, cối xay lúa bên bếp. Bức ký họa màu nước vẽ rõ cái cối xay lúa và cối giã gạo tay bằng gỗ như thế nào. Cả hai bức ký họa vẽ vào năm 1957 ở làng Càng, huyện Ôn Châu cũ nay là huyện Chi Lăng, Lạng Sơn. Một bức ký họa chì khác về cô gái quay sợi phía sau có bếp đắp đất và cái chảo lớn. Người Tày thường nhật dùng chảo này nấu ăn cho gia súc, khi cưới xin và lễ lạt thì nấu một số món bằng chảo lớn. Trồng dâu, bông, kéo tơ sợi, dệt vài, nhuộm chàm, may mặc lấy quần áo, người phụ nữ Tày nào cũng biết làm và phải học từ nhỏ do bà và mẹ dạy. Chúng tôi không rõ khi cô gái Tày đi lấy chồng phải may bao nhiêu bộ quần áo, nhưng một cô gái Nùng Phản Sình ở Hữu Lũng, Lạng Sơn, một tộc người cũng sống gần người Tày khi đi lấy chồng phải chuẩn bị 40 bộ quần áo, và mặc hết đời cũng chưa hết. Ngược lại nhà chồng phải đem lễ cưới gọi là Sí khẩu, Sí lẩu, Sí mu - tức là 400 cân gạo nếp, 400 lít rượu, và 400 cân thịt lợn. Đó là thời điểm năm 1978, còn đến nay tôi không rõ có thay đổi gì không.


Cô gái quay sợi, làng Càng, ký họa chì của Nguyễn Thụ khoảng năm 1964

Đời sống nông nghiệp xưa thay đổi rất chậm chạp, thậm chí hàng trăm năm trôi qua, mọi phong tục tập quán vẫn được giữ nguyên. Với những công cụ thô sơ - cày bừa cuốc xẻng và lao động tay chân, công cụ thu hái như liềm hái, cối giã gạo, xay gạo tay, và thậm chí là cối xay mượn sức mước, năng suất lao động rất thấp, nhu cầu con người vừa phải và bảo tồn được thiên nhiên xung quanh mình. Sự phát triển của công nghệ và khoa học, khi ứng dụng vào đời sống có cả hai mặt tốt và xấu. Người nông dân bây giờ tất cả các khâu, cấy cày, thu hái, gặt đập, xay xát, thuốc trừ sâu, phân bón, giống, nước tưới tiêu đều phải đi mua… thành thử sản xuất nông nghiệp ở những nơi đất ít người đông, không có lãi gì cả, thậm chí không khéo thì lỗ. Đời sống không hơn là mấy, thậm chí có nhiều mặt thụt lùi so với thời điểm những năm 1964 - 1957, mà người họa sĩ đã ghi chép lại, trong khi thiên nhiên bị tàn phá trơ trụi.


Cối giã gạo nước ở Vũ Nhai, Bắc Sơn, Lạng Sơn, ký họa màu nước năm 1966 của Nguyễn Thụ

Phan Cẩm Thượng
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm