26/11/2025 17:30 GMT+7 | Văn hoá
Thuở mới làm thơ, Quách Tấn được nhiều người ca ngợi làm thơ hay. Vì thế, ông quyết định chọn 100 bài thơ ưng ý nhất của mình gửi ra Hà Nội cho Tản Đà.
Xem chuyên đề Chữ và nghĩa TẠI ĐÂY
Ông chắc mẩm thế nào ông thi sĩ ngông này cũng phải chọn ít nhất dăm bài để in trên tạp chí An Nam và không ngớt lời khen ngợi! Thế nhưng, Tản Đà chỉ chọn in đúng... 1 bài "Cảm thuật"! Vâng, chỉ chọn đúng 1 bài. Bài thơ với 4 câu đầu như sau:
"Năm nay tuổi mới ngoại hai mươi,
Mặn lạt chua cay nếm đủ rồi.
Lúc hứng ngửa nghiêng trời đất rộng,
Khi buồn xáo trộn cổ kim chơi..."
Đã thế Tản Đà còn sửa: Câu 2, chữ "rồi" thay bằng chữ "mùi"; "chua cay" đổi lại thành "cay chua" vì "tiếng cay nặng hơn tiếng chua nên phải để sau thì câu thơ mới vững": "Mặn lạt cay chua nếm đủ mùi". Làm thơ khó vậy thay.
Không nản chí trước sự lựa chọn khắt khe của bậc đàn anh, Quách Tấn vẫn tiếp tục làm thơ và năm 1939 cho in tập thơ đầu tay Một tấm lòng. Lần này, nhận thấy thơ của Quách Tấn có tiến bộ, khởi sắc, Tản Đà mới nhận lời viết lời tựa. Trong đó có những câu khen ngợi mà cho đến cuối đời Quách Tấn vẫn còn nhớ mãi: "Thật là tài tình đủ vẻ. Ngoài ra nhiều bài mới thấy trong tập này, cũng có rất nhiều câu giai tác".

Ảnh minh hoạ: Internet
Với câu thơ "Mặn lạt cay chua nếm đủ mùi", ta biết mùi ở đây là mùi vị có thể nêm, nếm. Tục ngữ câu liên quan đến từ mùi như "Biết mùi chùi chẳng sạch", hoặc trong Truyện Kiều: "Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm", "Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay"…
Nếu mùi nghĩa là "Hơi đưa vào mũi mà người ta ngửi thấy: Mùi thơm, mùi thối, mùi tanh" - theo Việt Nam tự điển (1931), vậy tại sao trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị lại có câu: "Lệ ai chan chứa hơn người/ Giang châu tư mã đượm mùi áo xanh"? Xét về nguyên văn: "Tọa trung khấp hạ thùy tối đa/ Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp" (Trong tiệc, người khóc nhiều hơn ai hết là ai?/ Đó là ông Tư Mã đất Giang Châu ướt đầm vạt áo xanh), ta thấy dùng từ màu là hợp lý. Vậy, chẳng lẽ một bản dịch nổi tiếng nhất đã dịch Tỳ bà hành, phổ biến từ thế kỷ 18 đến nay lại không ai "phát hiện" ra tréo ngoe của "mùi áo xanh"?
Ta hãy khảo sát thêm câu thơ trong Chinh phụ ngâm, qua bản dịch Đoàn Thị Điểm - cùng thời với nhà văn hóa, dịch giả Phan Huy Vịnh: "Một năm một nhạt mùi son phấn/ Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi". Cả 2 ngữ cảnh này, "mùi" còn chính là màu. "Từ điển Việt - Bồ - La" (1651) cho biết: "Mùi: Mực, màu, mùi để nhuộm, mùy duộm hay nhuộm: Cùng một nghĩa. Mùi thôi ra: Màu bị tiết ra, bị mất đi". Mùy ghi theo chính tả hiện nay: Mùi. Ngày xa xưa ấy, khi có ai bảo: "Chẳng có mùi gì", còn phải hiểu theo nghĩa bóng như hiện nay là chẳng có lợi lộc, chẳng xơ múi được gì sất.
"Mùi" hiểu như "màu" đến thời Đại Nam quấc âm tự vị (1895) vẫn còn ghi nhận: "Lựa mùi: Lựa màu, lựa nhuộm. Phai mùi: Phai màu"… Giữa mùi và màu là cùng cách nói của thời ấy.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất