Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11): Hòa quyện giữa ý Đảng, lòng dân

18/11/2025 06:29 GMT+7 | Tin tức 24h

Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn xác định "đoàn kết" là giá trị cốt lõi và "đại đoàn kết toàn dân tộc" là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam. 

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam diễn ra hàng năm vào dịp kỷ niệm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11) đã trở thành truyền thống, nét đẹp văn hóa, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Từ đó góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, gắn kết tình làng, nghĩa xóm, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết của cả cộng đồng.

Sức mạnh và lực lượng đoàn kết của nhân dân là vô cùng vĩ đại

Từ ngàn đời nay, tinh thần đoàn kết, gắn bó keo sơn giữa các tầng lớp nhân dân đã trở thành một truyền thống bền vững và quý báu của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, mỗi khi đất nước lâm nguy, tinh thần đại đoàn kết lại được phát huy mạnh mẽ, trở thành động lực giúp dân tộc ta vượt qua mọi thử thách.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò, sứ mệnh, sức mạnh của tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: "Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ". (1)

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11): Hòa quyện giữa ý Đảng, lòng dân - Ảnh 1.

Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu tại phiên khai mạc Đại hội, ngày 5/9/1955. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Người cũng chỉ rõ sức mạnh lớn nhất của cách mạng Việt Nam là nằm ở nhân dân và nếu đoàn kết được nhân dân thì sẽ tạo ra sức mạnh vô địch: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh kết nối của nhân dân" (2). Người cũng khẳng định: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong" (3). Trải qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công". (4)

Để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân và nhân nguồn sức mạnh đó lên, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp nhân dân vào hàng ngũ cách mạng, bổ sung và phát huy vai trò của họ, làm cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng; đồng thời khẳng định liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Người chỉ rõ "Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây" (5). Thực tế cho thấy, liên minh công-nông-trí không những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu khách quan để phát triển bền vững kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước.

Đây cũng chính là cơ sở để Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thành lập và lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trải qua các thời kỳ cách mạng với những hình thức tổ chức và tên gọi khác nhau, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng lớn mạnh và có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc, trở thành một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với chức năng tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo và các thành phần trong xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hiệu triệu, quy tụ nhân dân thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc, chung sức, đồng lòng làm nên những thắng lợi vĩ đại, viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ, trở thành chủ nhân của đất nước; mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, Đảng ta đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết nhằm tăng cường, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới, tiêu biểu là các Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII và XIII của Đảng; đặc biệt là Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Sau 20 năm, đến Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (năm 2023), Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết 43-NQ/TW (2023) về tăng cường truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết trong giai đoạn mới. Nghị quyết 43-NQ/TW một lần nữa khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là đường lối chiến lược xuyên suốt của Đảng; là nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết số 43-NQ/TW đề ra mục tiêu nhằm tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11): Hòa quyện giữa ý Đảng, lòng dân - Ảnh 2.

Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh tư liệu

Thực tiễn cho thấy, những thành tựu kinh tế vượt bậc của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới là do sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng; sự đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó có vai trò quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự đóng góp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Việt Nam từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một quốc gia thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Kinh tế tăng trưởng liên tục, quy mô nền kinh tế năm 2024 đã tiến gần mốc 500 tỷ USD, gấp gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ 4 Đông Nam Á và thứ 34 toàn cầu. Lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ, được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Sự gắn kết, đồng lòng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đã và đang trở thành sức mạnh để Việt Nam tự tin đối mặt với những thách thức toàn cầu.

Ngày hội của lòng dân

Ngày 1/8/2003, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra Nghị quyết số 04/NQ/ĐCT-MTTW về việc tổ chức "Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc" và quyết định lấy ngày 18/11 hàng năm làm ngày tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết ở khu dân cư nhằm tiếp tục xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới.

Sau hơn 20 năm tổ chức, Ngày hội Đại đoàn kết mang nhiều ý nghĩa thiết thực và sâu sắc, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền và Nhân dân ở khu dân cư. Qua đó khơi dậy trong các tầng lớp Nhân dân tinh thần đoàn kết và truyền thống thi đua yêu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11): Hòa quyện giữa ý Đảng, lòng dân - Ảnh 3.

Tổng Bí thư Tô Lâm tặng bức tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phường Thượng Cát, thành phố Hà Nội. Ảnh: Thống Nhất – TTXVN

Ngày hội Đại đoàn kết đã tôn vinh những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Thông qua ngày hội, các nét văn hóa đặc sắc của các tầng lớp dân cư, các dân tộc trên địa bàn tiếp tục được bảo tồn và phát huy. Thêm vào đó là tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Từ đó, góp phần thực hiện tốt các phong trào "Xây dựng gia đình văn hóa", "Xây dựng văn hóa ở khu dân cư", xây dựng các gia đình điển hình có "Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền"… Cùng với việc xây dựng nếp sống mới là việc đấu tranh chống lại các hủ tục lạc hậu: mê tín, dị đoan. Xóa bỏ dần những tệ nạn trong xã hội, như: rượu chè, cờ bạc, trộm cắp, ma túy, mại dâm, đánh bạc…

Ngày hội Đại đoàn kết dân tộc còn góp phần động viên các tầng lớp Nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương. Thông qua Ngày hội, nhiều khu dân cư đã sáng tạo ra các hình thức giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, như: chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở mang ngành nghề, giải quyết việc làm, thành lập các tổ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, giúp nhau về vốn, giống cây trồng, vật nuôi…

Ngày hội còn là cầu nối chặt chẽ giữa Đảng, chính quyền và Nhân dân ở khu dân cư; phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, góp phần thực hiện dân chủ ở cơ sở, tạo ra môi trường gắn bó, thân thiết, gần gũi giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Những ngày này, ngày hội Đại đoàn kết đã được tổ chức trên khắp mọi miền của cả nước. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã cùng chung vui với người dân tại các địa phương trong Ngày hội lớn.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc (18/11): Hòa quyện giữa ý Đảng, lòng dân - Ảnh 4.

Tổng Bí thư Tô Lâm với nhân dân phường Thượng Cát, rhành phố Hà Nội. Ảnh: Thống Nhất – TTXVN

Ngày 14/11/2025, trong không khí ấm áp của Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại phường Thượng Cát, thành phố Hà Nội, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: "Sức mạnh đại đoàn kết bắt đầu từ những điều rất gần gũi, mộc mạc: niềm tin và tình con người. Khi ta tin nhau, thương nhau, tôn trọng nhau, ta sẽ biết cùng nhau làm việc lớn. Khi ta đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, mọi khác biệt sẽ tìm được mẫu số chung; mọi khó khăn sẽ có lối mở và được giải quyết".

Để tinh thần ấy đi vào đời sống hằng ngày, để thành kết quả có thể đo đếm được, Tổng Bí thư nhấn mạnh 7 nhóm việc cụ thể cần thực hiện: dân là gốc; kỷ cương-liêm chính; bộ máy tinh gọn; khơi thông nguồn lực phát triển; an sinh - văn hóa - con người; quốc phòng - an ninh gắn đối ngoại, hội nhập quốc tế; mặt trận - đoàn thể - tổ chức xã hội - cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế cần được kết nối chặt hơn, rộng hơn qua các hoạt động đối ngoại nhân dân, qua kết nối thể thao, văn hóa, du lịch, giáo dục đào tạo, giao lưu nhân dân.

Tổng Bí thư căn dặn, đoàn kết rất gần gũi, rất đời thường, là hơi thở, nhịp sống hằng ngày. Đoàn kết là một ánh nhìn tin cậy, là một cái bắt tay sẻ chia, là một lời nói ấm áp, cảm thông, là một việc làm đến nơi đến chốn, tình làng nghĩa xóm… Ở cơ quan, công sở hãy biến cuộc họp thành diễn đàn tìm giải pháp, là nơi tìm ra mẫu số chung, tìm ra lời giải cho mọi vấn đề trên tinh thần "học thầy không tày học bạn". Ở địa phương, hãy coi sự hài lòng của người dân là thước đo mọi quyết định. Ở doanh nghiệp, công trường, xưởng máy hãy coi sự liêm chính, thu nhập của người lao động là vốn quý, là sức sống của doanh nhân. Trên không gian mạng, hãy là người truyền tin có trách nhiệm, trung thực, không bịa đặt, không phát tán tin giả, không gieo mầm chia rẽ, thay vào đó là lan tỏa hiểu biết, tinh thần cầu thị, tranh luận có văn hóa.

Tổng Bí thư mong muốn, hãy khắc ghi và lan tỏa tinh thần "5 dám" (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung) và "3 cùng" (cùng bàn, cùng làm, cùng hưởng), nếu thực hiện như vậy là đã góp một viên gạch bền chắc vào ngôi nhà đại đoàn kết Việt Nam.

Có thể khẳng định, ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy, trở thành nền tảng cho sự nghiệp phát triển toàn diện. Không khí của Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc hiện hữu sôi nổi trên khắp cả nước. Từ làng xóm, bản làng miền núi hay thành thị, người dân không phân biệt tôn giáo, dân tộc, cùng nhau ôn lại truyền thống, chung vui với những thành tựu trong lao động, sản xuất và cùng chung điệu múa lời ca. Tinh thần đại đoàn kết dân tộc được củng cố và lan tỏa, trở thành nền tảng tinh thần, động lực nội sinh giúp khơi dậy niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 9, tr. 244

(2): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 10, tr. 453

(3): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 15, tr. 280

(4): Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, tập 13, tr. 120

(5): Hồ Chí Minh Toàn tập, sđd, tập 9, tr. 244

Diệp Ninh/TTXVN (tổng hợp)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm