22/11/2025 07:01 GMT+7 | Văn hoá
Chúng ta đã đến rất gần Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11. Tròn 20 năm trước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 23/11 hằng năm là Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam.
Chúng ta đã đến rất gần Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11. Tròn 20 năm trước, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định lấy ngày 23/11 hằng năm là Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam. Xa hơn, trong bối cảnh của một quốc gia vừa giành độc lập, vào ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL về việc ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện - sắc lệnh đầu tiên liên quan tới bảo tồn di sản văn hóa của một Nhà nước Việt Nam còn non trẻ.
Những cột mốc ấy tạo nên một dòng chảy liền mạch, từ nhận thức ban đầu về vai trò của di sản trong buổi đầu lập quốc đến việc xác lập một ngày kỷ niệm ở tầm quốc gia khi đất nước bước vào giai đoạn phát triển và hội nhập. Và bây giờ, sau hai thập niên nhìn lại, có thể thấy di sản ngày càng hiện diện rõ hơn trong đời sống và trong cách xã hội vận hành.
Hai mươi năm qua, nhìn ở con số, lĩnh vực di sản đã có nhiều bước tiến đáng kể. Cả nước hiện có hơn 10.000 di tích được xếp hạng, hơn 7.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, gần 200 bảo tàng với hơn 4 triệu hiện vật đang lưu giữ những phần ký ức quan trọng của dân tộc. Trên phạm vi quốc tế, Việt Nam có 9 Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới, 16 Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 11 Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Ký ức Thế giới của UNESCO.

Vườn tháp Huệ Quang (phường Uông Bí, Quảng Ninh) nằm trong Quần thể di tích Yên Tử-Vĩnh Nghiêm-Côn Sơn, Kiếp Bạc vừa trở thành Di sản Văn hóa Thế giới vào tháng 7/2025. Ảnh Minh Đức/TTXVN
Nhưng nếu chỉ nhìn vào thành tích, chúng ta vẫn chưa chạm tới một điều cốt lõi của hai thập niên vừa qua: sự thay đổi trong cách xã hội tiếp nhận và đồng hành cùng di sản.
Trước đây, di sản thường được mặc định là công việc của Nhà nước và giới chuyên môn. Cộng đồng, nếu được nhắc tới, phần nhiều chỉ ở vị trí thụ hưởng hoặc được "vận động tham gia". Nhưng hôm nay, bức tranh ấy đã khác, khi di sản bước vào đời sống xã hội theo nhiều cách, từ các cuộc tranh luận của cộng đồng cho đến những phản ứng mạnh mẽ khi một di tích đứng trước nguy cơ biến mất hay bị thương mại hóa quá mức.
Sự chú ý của dư luận những ngày qua trước con tàu cổ phát lộ ở bờ biển Hội An Tây (Đà Nẵng) là một ví dụ. Từ một thông tin tưởng như bó hẹp trong ngành khảo cổ, câu chuyện nhanh chóng lan rộng, với nhiều ý kiến mong muốn có phương án bảo tồn sớm con tàu trước những tác động từ biển. Điều đó cho thấy, vượt hơn giá trị của một con tàu cổ, chính là thái độ xã hội khi người dân chủ động lên tiếng bảo vệ di sản, mong thấy quá khứ được trân trọng.

Tàu cổ phát lộ ở bờ biển phường Hội An Tây, Đà Nẵng. Ảnh: Trần Lê Lâm - TTXVN
Di chỉ Vườn Chuối tại Hà Nội lại là một ví dụ khác, bền bỉ hơn. Suốt nhiều năm qua, các nhà khảo cổ cùng cộng đồng địa phương liên tục cảnh báo nguy cơ di chỉ bị tác động bởi các dự án xây dựng chồng chéo do thiếu quy hoạch. Bởi thế, việc Hà Nội công nhận Vườn Chuối là di tích cấp thành phố mới đây không chỉ là kết quả của những nỗ lực ấy, mà còn cho thấy quá trình tích tụ nhận thức xã hội về giá trị của những tầng văn hóa dưới lòng đất. Khi đó, bảo tồn không còn là quyết định một chiều mà trở thành sự phối hợp giữa chính quyền, giới chuyên môn và cộng đồng.
Nhìn từ các trường hợp ấy, có thể thấy rất rõ sự chuyển biến trong cách xã hội tiếp cận di sản: người dân quan tâm và bày tỏ chính kiến, giới nghiên cứu chủ động giải thích, kết nối với cộng đồng, còn chính quyền địa phương thận trọng và cầu thị hơn trong các quyết định liên quan đến ký ức chung và không gian văn hóa.
Ở góc độ khác, sự thay đổi này còn thể hiện trong tư duy phát triển của nhiều địa phương, khi không ít tỉnh, thành phố chọn di sản làm trụ cột kinh tế, chuyển từ "công nghiệp có khói" sang "kinh tế không khói". Di sản trở thành nền tảng cho du lịch văn hóa, cho sản phẩm sáng tạo, cho các thương hiệu gắn với lễ hội, làng nghề, nghệ thuật trình diễn. Và dù vẫn có những cách làm chưa hợp lý ở một số trường hợp, nhưng rõ ràng sự giám sát và phản biện xã hội đang khiến các mô hình thiếu bền vững dần giảm đi.

Trưng bày các hiện vật khai quật tại di chỉ Vườn Chuối (Hà Nội)
***
Sau 20 năm, trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, di sản văn hóa của Việt Nam đang đứng trước những yêu cầu mới. Tốc độ thông tin có thể khiến các giá trị nền tảng dễ bị lấn át, nhưng công nghệ cũng mở ra khả năng giúp di sản tiếp cận công chúng theo cách linh hoạt và sống động hơn.
Chúng ta đang chứng kiến nhiều cách tiếp cận mới: tour tham quan trực tuyến, bảo tàng ảo, trải nghiệm thực tế ảo, các video kể chuyện di sản theo ngôn ngữ người trẻ. Ở chiều ngược lại, nhiều di tích chủ động ứng dụng công nghệ với sự đồng hành của các nhóm sáng tạo trẻ, trong tư duy ngày càng rõ rệt: di sản không chỉ để trưng bày hay lưu giữ, mà cần trở thành trải nghiệm để cộng đồng cùng tham gia diễn giải.
Như thế, 20 năm của Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam đã cho thấy một điều quan trọng: bên cạnh những danh hiệu và con số đạt được, xã hội đã quen với những câu hỏi mang tính nền tảng: Giữ di sản để làm gì? Phát huy theo cách nào? Và chúng ta chọn đứng ở đâu khi di sản đối diện sức ép phát triển? Khi tiếng nói cộng đồng được lắng nghe và cách tiếp cận trở nên cởi mở hơn, có thể tin rằng chúng ta đang đi đúng hướng.
Bởi xét cho cùng, với mọi nền văn hóa, di sản không chỉ là ký ức của quá khứ mà còn là lời cam kết với tương lai.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất