Khi thơ ca viết nên "hình đất nước"

02/09/2025 14:17 GMT+7 | Văn hoá

Suốt dặm dài lịch sử 80 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc kể từ mùa Thu lịch sử năm 1945, chưa khi nào thơ ca vắng bóng trên những chặng đường vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta.

Từ trong khói lửa chiến tranh, thơ ca cách mạng đã khắc tạc hình hài đất nước bằng tiếng nói của những thế hệ văn nghệ sĩ chép sử bằng thơ. Những câu chữ thấm nước mắt và máu xương, chan lửa và hoa, mang trong mình tâm hồn dân tộc, cứ thế vẽ nên một chân dung Tổ quốc anh hùng…

Sử dân tộc được chép bằng thơ

Ngay từ buổi đầu, trước khi ánh sáng cách mạng soi rọi, thơ ca đã là chứng nhân của những đêm đen nô lệ. Bằng trái tim ấm nóng và tâm hồn nhạy cảm, các nhà thơ đã nhanh chóng nhập cuộc, cất tiếng nói thay cho những kiếp đời lầm than, những phận người bị áp bức dưới ách thực dân.

Đó là những "Bát cơm chan đầy nước mắt/ Bay còn giằng khỏi miệng ta/ Thằng giặc Tây, thằng chúa đất/ Đứa đè cổ, đứa lột da...", để rồi dồn nén căm phẫn thành lời khẳng định: "Xiềng xích chúng bay không khóa được/ Trời đầy chim và đất đầy hoa/ Súng đạn chúng bay không bắn được/ Lòng dân ta yêu nước thương nhà!" (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Rồi, "Nát bầm da quằn quại là nơi đây/ Roi đế quốc, báng súng trường quất xé/ Thịt hy sinh của những kiếp đi đầy!" (Lao Bảo - Tố Hữu)… những câu thơ hóa thành chứng tích, khắc vào dáng hình đất nước những đau thương của một thời máu lửa.

(A80) Khi thơ ca viết nên "hình đất nước" - Ảnh 1.

Thế hệ nhà thơ cách mạng (từ trái qua, từ trên xuống): Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm

Lịch sử sang trang khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước. Đó là phút giây: "Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc/ Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin/ Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp/ Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin/ Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc/ "Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"/ Hình của Đảng lồng trong hình của Nước/ Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười" (Người đi tìm hình của nước - Chế Lan Viên). Qua thơ, dáng hình đất nước bừng sáng với niềm tin độc lập, tự do, mở ra vận mệnh mới.

Kể từ giây phút "Hình của Đảng lồng trong hình của Nước", dưới ngọn cờ cách mạng, dáng hình đất nước được bao trùm bởi khí thế nhất tề vùng lên của nhân dân. Trong thơ, khí thế cách mạng sục sôi đã hiện hình.

Đó là lời hiệu triệu "Càng đấu tranh vàng mới lại vàng ra/ Có nung nấu, đỏ mới càng đỏ riết/ Theo cờ gọi, những con dân đất Việt/ Dâng máu xương không tiếc với sơn hà" (Ngọn quốc kỳ - Xuân Diệu). Và có cả lời thề ghi tạc vào lịch sử trong phút giây sống còn: "Đường tranh đấu không một giờ thoái bộ/ Sống đã vì cách mạng, anh em ta/ Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!/ Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng" (Trăng trối - Tố Hữu)…

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công rực rỡ: "Nước non ơi, hết thảy vùng lên!/ Bắc Trung Nam khắp ba miền/ Toàn dân khởi nghĩa! Chính quyền về tay!" (Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu). Một tuyên bố bằng thơ cho một thắng lợi vĩ đại, khi dáng hình đất nước rạng rỡ hơn bao giờ hết trong khoảnh khắc khép lại năm tháng nô lệ, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do của dân tộc.

Nhưng niềm vui chưa lâu, thực dân Pháp trở lại xâm lược. Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ vang vọng khắp non sông: "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ". Trong những năm tháng hào hùng này, thơ ca cách mạng không chỉ vang lên như tiếng trống xung trận, mà còn trở thành nhịp đập trái tim của cả dân tộc. Đó là tiếng nói đồng chí, đồng lòng, đồng sức; là vũ khí tinh thần sắc bén, sát cánh cùng nhân dân và chiến sĩ trên mọi mặt trận, hun đúc niềm tin tất thắng.

Minh chứng rõ nhất chính là Đồng chí (Chính Hữu) dựng tượng đài bất tử về tình đồng đội, từ "Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá" đến "Súng bên súng, đầu sát bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ". Trong tình nghĩa ấy, dáng hình đất nước hiện lên qua những con người bình dị mà lớn lao, anh hùng.

Chín năm trường kỳ kháng chiến khép lại bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - bản anh hùng ca "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Khi ấy, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (Tố Hữu) như một đài tưởng niệm bằng thơ, khắc họa dáng hình đất nước trong chiến thắng của những người "thân chôn làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai", những đoàn dân công "Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô anh hò chị hát"… để rồi máu xương hóa thành "hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng".

Từ đây, khúc khải hoàn vang lên hào hùng: "Kháng chiến ba nghìn ngày/ Không đêm nào vui bằng đêm nay/ Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực/ Trên đất nước, như huân chương trên ngực/ Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!".

(A80) Khi thơ ca viết nên "hình đất nước" - Ảnh 2.

Một số tập thơ cách mạng nổi bật của nhà thơ Tố Hữu

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc, nhưng miền Nam lại bước vào cuộc chiến mới. Khí thế "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" hòa trong cảm hứng bất tận trong Đất Nước: "Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm… Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình/ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở" (Nguyễn Khoa Điềm). Cứ thế, dáng hình đất nước vừa là biểu tượng thiêng liêng, vừa là tiếng gọi thôi thúc mỗi người hóa thân, dâng hiến cho non sông.

Song hành cùng với những cảm hứng lớn lao về đất nước, thơ ca chống Mỹ còn kể những câu chuyện từ chiến trường thấm đẫm cảm hứng sử thi anh hùng, nơi thơ ca và hiện thực hòa làm một.

Đó là bức chân dung thế hệ ra trận hiện lên tươi mới trong Một người lính nói về thế hệ mình (Thanh Thảo). Một thế hệ "trẻ măng tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ", nhưng "mỗi ngày đều đụng trận/ mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối tám hai/ vẫn thường vác trên vai". Giữa gian khổ, họ "bùng ngọn lửa chính mình soi sáng đường đi tới" để làm nên dáng hình đất nước ngời sáng sự dấn thân.

Còn Lê Anh Xuân dựng nên Dáng đứng Việt Nam: người chiến sĩ ngã xuống nhưng "gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng" và chết trong tư thế đứng bắn. Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ, nhưng để lại "dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ" - biểu tượng bất tử của dáng hình đất nước trong tư thế chủ thể lịch sử.

Trong khi đó, ở hậu phương, có Mẹ đồng chiêm (Vương Trọng) tần tảo: "Cắm cây mạ mấy lần, mấy lần cằm chạm sóng/ Chân ngập trong bùn, lưng còng trong nắng", để "Con đến đâu cũng có bát cơm đầy/ Bát cơm nào cũng gợi về nơi mẹ". Từ bùn đất chưa kịp phai qua mùa gặt và hạt thóc "ngàn năm vẫn trẻ", người lính nhận ra nguồn sức mạnh lớn lao nơi hậu phương.

Trên con đường đi tới ngày thống nhất, còn có một miền Nam thành đồng sáng lên bằng cả nước mắt và nụ cười. Ví như Vàm Cỏ Đông (Hoài Vũ) gọi tên dòng sông "như dòng lịch sử/ Sáng ngời tên từ thuở cha ông", in bóng những cô gái bơi xuồng dưới trăng mờ, những chàng trai "dám đổi thân mình lấy tàu giặc/ Nụ cười khi chết hãy còn tươi". Để rồi "Vàm Cỏ Đông đây, ta quyết giữ" vang lên như một thời thề sắt son của những con người làm nên lịch sử…

Trong kho tàng thơ ca cách mạng, hẳn còn biết bao bản hùng ca ca ngợi những mốc son chói lọi trong lịch sử chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng sức sống lớn lao của dòng thơ này nằm ở chỗ: chỉ cần đôi ba câu được cất lên đã đủ làm sống dậy cả một thời đại; dẫu máu xương có đổ xuống, hy sinh đến tận cùng, thì dáng đứng Tổ quốc vẫn hiên ngang, kiêu hãnh.

Ấy là thời đại mà sử dân tộc được chép bằng thơ, dáng hình đất nước hiện lên trong từng câu chữ rực lửa của một thế hệ nhà thơ - chiến sĩ. Bởi thế, trên những con đường đi tới ngày thống nhất, thơ ca, từ mạch nguồn vì Tổ quốc, vì Nhân dân, đã trở thành ngọn lửa tiếp sức, khơi dậy niềm tự hào, để mỗi lần đọc lại, ta như nghe tiếng trái tim đất nước đập rộn trong mình.

Viết tiếp bản hùng ca đất nước

Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, non sông thu về một mối. Thắng lợi vẻ vang này, một lần nữa đã khẳng định sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng ta, đồng thời thể hiện giá trị bền vững của lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của Nhân dân ta trên mặt trận chống quân thù.

Nhưng lịch sử không dừng lại ở ngày toàn thắng. Từ dấu mốc này, những người lính Cụ Hồ lại tiếp tục những hành trình mới: chiến đấu bảo vệ biên giới phía Tây Nam, biên giới phía Bắc của Tổ quốc, giữ gìn chủ quyền biển đảo thiêng liêng… Và trên mọi chặng đường chiến đấu, thơ ca vẫn kề vai sát cánh, viết tiếp bản hùng ca của một dân tộc chưa bao giờ lùi bước trước những thử thách của lịch sử.

(A80) Khi thơ ca viết nên "hình đất nước" - Ảnh 3.

Các văn nghệ sĩ tại trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam ở xóm Chòi (Đại Từ, Thái Nguyên) năm 1949. Từ trái qua: Ngô Tất Tố, Nguyễn Xuân Sanh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân. Ảnh: Trần Văn Lưu

Từ mạch nguồn sử thi kháng chiến, được nuôi dưỡng bởi truyền thống văn hóa và lịch sử cha anh, các thế hệ nhà thơ - chiến sĩ trong giai đoạn mới vẫn không ngừng khắc họa dáng hình đất nước bằng những vần thơ chan chứa tình yêu quê hương, đất nước cộng hưởng với cảm hứng anh hùng như một sức sống tự thân. Trong thơ, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ tươi sáng mãi trong bản hùng ca.

Ở nơi địa đầu phía Bắc, trong khoảnh khắc Gặp lại các em (Nguyễn Đình Chiến), những người lính trẻ ngã xuống khi tuổi đời còn chưa kịp tròn đôi mươi hiện lên vừa đau thương vừa bi tráng. Chỉ mấy câu thơ thôi đã làm sống dậy một miền ký ức bao mất mát, đau thương: "Tìm các em trong sắc cỏ xanh rì/ Sau cơn mưa nghi ngút nắng hè/ Để bóng anh trùm lên từng ngôi mộ/ Hàng bia nhỏ không còn nhìn rõ chữ/ Nhưng gương mặt nào anh cũng nhớ y nguyên".

Thế nhưng những mất mát hy sinh đó đã hóa lý tưởng: "Chưa tròn tuổi quân nhưng các em sống trọn cuộc đời/ Với đồng đội, với tình yêu biên giới". Để rồi, người ở lại, trước những ngôi mộ đồng đội, như soi thấy chính mình rõ hơn, thấy bừng lên khát vọng sống cao cả: "Nay đứng trước các em anh thấy mình rõ nhất/ Thấy tan đi những suy tư vụn vặt/ Thấy cháy bùng bao ước nguyện thiêng liêng"… Đó không chỉ là lời gọi đồng đội "Như gọi tên những người thương yêu nhất", mà còn là tiếng vọng của một thế hệ nguyện lấy máu mình giữ từng tấc đất biên cương: "Đất của mình chứ đất của ai/ Phải xông lên mà giữ!/ Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa/ Còn cháy lòng bao chiến sỹ xung phong".

(A80) Khi thơ ca viết nên "hình đất nước" - Ảnh 4.

Tại lễ tiễn văn nghệ sĩ lên đường đi mặt trận tháng 10/1949. Từ phải qua: Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Ảnh: Trần Văn Lưu

Từ những ngọn sóng Hoàng Sa, Trường Sa, Tổ quốc nhìn từ biển (Nguyễn Việt Chiến) đã mở ra một khoảng không bao la của biển Đông, nơi huyền sử dân tộc vang vọng cùng những trăn trở hôm nay: "Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển/ Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng/ Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa/ Trong hồn người có ngọn sóng nào không?"…

Trong bản hùng ca đất nước được cất lên từ những câu thơ về người lính trong giai đoạn mới, những thi phẩm Gặp lại các em của Nguyễn Đình Chiến và Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến… là những lát cắt quan trọng, tiếp tục bồi đắp cho dáng hình đất nước được vun đắp từ những năm tháng chiến chinh. Mỗi câu thơ mang theo hơi thở của chiến trường, hơi ấm đồng đội, tình thương với nhân dân, và khát vọng bảo vệ từng tấc đất, từng ngọn sóng biển khơi. Thơ ca hôm nay vẫn viết tiếp bản anh hùng ca của dân tộc, nơi từng con chữ đều trân trọng ký ức, tôn vinh lý tưởng và truyền cảm hứng cho những bước chân hôm nay - những bước chân tiếp tục giữ vững, nâng niu và kiến tạo dáng hình đất nước trong kỷ nguyên mới.

Công Bắc

Tags:
Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm