Góc nhìn khác về Thị Mầu trong vở chèo cổ “Quan Âm Thị Kính”

29/10/2025 15:55 GMT+7 | Văn hoá

Tôi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật lâu đời, với ông bà và các thế hệ trước dành cả cuộc đời để cống hiến cho nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam.

Thế nhưng, lớn lên trong một thế giới ngày càng toàn cầu hoá, tôi cũng như rất nhiều bạn trẻ Việt Nam khác đã được sớm tiếp xúc với những dòng nhạc ngoại sôi động cùng những giai điệu hiện đại, theo "style" của các ca sĩ ăn mặc rực rỡ trên sân khấu hoành tráng.

Chính điều đó đã khiến tôi chưa bao giờ thực sự quan tâm tới nghệ thuật chèo, nơi chứa đựng những lời ca giản dị hay chiếu hát nhỏ trước cửa đình - điều đã từng là một phần không thể thiếu với gia đình tôi. Khi dần trưởng thành và nhiều trải nghiệm hơn, tôi bất ngờ nhận ra, đằng sau giai điệu mộc mạc ấy người xưa từng gửi gắm tiếng nói phản kháng mạnh mẽ, để lại cho con cháu những bài học vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay. Trong đó, người nghệ sĩ chèo đã dám phá bỏ những giới hạn của thời đại để tiên phong khắc họa những nữ nhân vật vượt xa khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến thời bấy giờ, những người dám yêu, dám hận, dám giành lại số phận của mình từ tay một xã hội phong kiến khắc nghiệt và ngột ngạt.

Góc nhìn khác về Thị Mầu trong vở chèo cổ “Quan Âm Thị Kính” - Ảnh 1.

NSƯT Thúy Hà (vai Thị Kính) và nghệ sĩ Thu Hà (vai Thị Mầu) - Nhà hát chèo Thái Bình cũ (nay là Nhà hát Chèo Hưng Yên) trong trích đoạn “Thị Mầu lên chùa” - vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Ảnh: Nguyễn Hoàng

Nhân vật tiêu biểu minh hoạ rõ nhất cho điều này là Thị Mầu trong vở chèo cổ "Quan Âm Thị Kính". Trong nghệ thuật Việt Nam nói chung và đặc biệt là nghệ thuật dân gian thời kỳ phong kiến nói riêng, hiếm có một nhân vật nữ nào được khắc hoạ với tính cách phóng khoáng như Thị Mầu. Nhưng ả không phải là một người mưu mô, toan tính mà tất cả những hành động của Thị Mầu đều đơn giản xuất phát từ một khao khát để yêu và được yêu đến mức mù quáng. Nếu người phụ nữ Việt Nam thời xưa được giáo huấn phải giữ Tứ đức "công, dung, ngôn, hạnh", để được xã hội công nhận về mặt đạo đức, thì ả đã thẳng tay gạt phăng những khuôn khổ ấy. Thị Mầu không hề màng đến những lời ra tiếng vào của thiên hạ mà cho phép bản thân nghe theo những điều mà trái tim khao khát.

Khi lần đầu tiên thấy Thị Kính, người đang sống dưới thân phận một chú tiểu, ả đã không ngần ngại thốt lên: "Chị em ơi, người đâu đến tu chùa mà đẹp như sao băng thế nhỉ?". Chính câu nói ấy đã bộc lộ sự say mê của tuổi trẻ nơi người thiếu nữ chỉ đôi mươi - thứ cảm xúc vốn dĩ tự nhiên nhưng lại bị xã hội phong kiến coi là không đoan chính, buộc người phụ nữ phải đè nén. Sự xuất hiện của Thị Mầu như một làn gió hoang dại thổi bừng sức sống vào bức tranh đời sống ngột ngạt của những người phụ nữ thời xưa, cho phép họ cơ hội được thoát khỏi những ràng buộc xã hội nghẹt thở dù chỉ trong chốc lát và nhìn thấy chính mình dưới một khía cạnh nhiệt huyết, bản năng hơn.

"Quan Âm Thị Kính" là một trong những vở chèo cổ mẫu mực, một tác phẩm kinh điển của nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam. Vở chèo kể về cuộc đời đầy trắc trở, oan khuất và bất hạnh của nhân vật Thị Kính, một người phụ nữ trẻ đức hạnh sinh ra trong một gia đình trung lưu nề nếp, gia giáo. Nàng được gả làm vợ của chàng Thiện Sĩ. Khi Thiện Sĩ đang ngủ, Thị Kính nhìn thấy dưới cằm chồng mình có sợi râu mọc ngược (là một điềm xấu cho chàng sĩ tử đang ôn thi), nàng lo lắng và dùng con dao khâu vá cắt râu cho chồng, đúng lúc Thiện sĩ choàng tỉnh thấy vợ đang cầm dao đưa vào gần cổ mình. Thị Kính đã bị chồng hiểu lầm, và nhà chồng vu cho là cố ý tìm cách giết chồng. Bị gia đình chồng đuổi ra khỏi nhà, Thị Kính không còn chốn dung thân, nàng cải trang thành nam nhi xin vào tu chùa (thời đó chỉ nam nhi mới được đi tu) và trở thành một chú tiểu với pháp danh Tiểu Kính Tâm. Trong chùa, nàng đã gặp Thị Mầu, con gái phú ông giàu có, một thiếu nữ mới lớn phóng khoáng, "lẳng lơ", luôn nồng nhiệt tìm kiếm tình yêu của bản thân. Thị Mầu đã nhầm tưởng Thị Kính là nam nhi và đem lòng yêu da diết Tiểu Kính Tâm nhưng không được đáp trả. Sau đó Thị Mầu mang thai với anh Nô, người làm cho phú ông nhưng đã cố tình đổ lỗi cho "Tiểu Kính Tâm" là cha đứa trẻ. Mặc dù vô tội, Thị Kính vẫn chấp nhận hình phạt trong im lặng và nuôi dạy đứa trẻ bằng lòng tốt và sự bao dung của bản thân. Khi đứa trẻ được ba tuổi, Thị Kính vì lao lực mà mất đi, khi hấp hối còn kịp để lại một bức thư cho cha mẹ. Tới khi nhà chùa lập đàn cầu siêu cho Thị Kính, thân phận nữ nhi nàng mới được sáng tỏ và Thị Kính đã được phong là Quan Âm – biểu tượng tượng trưng cho lòng từ bi bác ái, sự hy sinh bản thân và cứu độ chúng sinh khỏi mọi khổ đau lầm lỡ.

Dưới lăng kính nữ quyền, Thị Mầu là một hình tượng nhân vật đi trước thời đại hàng thập kỷ, đặc biệt trong bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam cùng tư tưởng Nho giáo vẫn còn nặng nề vật hoá phụ nữ, coi họ như những món đồ để sở hữu, không được phép có suy nghĩ hay cảm xúc. Sự táo báo khi xây dựng nên một nhân vật nữ đi ngược lại hoàn toàn với chuẩn mực đạo đức thời bấy giờ đã cho phép Thị Mầu tiên phong đặt nền móng cho cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng của phụ nữ trong nghệ thuật dân gian. 

Góc nhìn khác về Thị Mầu trong vở chèo cổ “Quan Âm Thị Kính” - Ảnh 3.

Nghệ sĩ Trúc Quỳnh (vai Thị Mầu) - Nhà hát Chèo Việt Nam cũ (nay là Nhà hát Sân khấu truyền thống Quốc gia Việt Nam) trong trích đoạn “Thị Mầu lên chùa” - vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Ảnh: Nguyễn Hoàng

Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không khỏi kinh ngạc trước tầm nhìn và tư tưởng tiên phong vượt xa khỏi khuôn khổ thời đại được thể hiện trong các vở chèo. Đặc biệt là sự cảm phục khi chứng kiến những nghệ sĩ thời xưa dám phơi bày hiện thực khắc nghiệt của đời sống phụ nữ Việt Nam và phê phán những bất công mà họ phải chịu đựng, điều mà nhiều lúc xã hội hiện đại vẫn không thể làm. Ấn tượng đọng lại sâu sắc nhất không chỉ là tư duy nghệ thuật của người xưa mà còn là việc, giữa một thời kỳ đầy biến động và bất ổn, cụ tôi, ông bà tôi và biết bao người nghệ sĩ thế hệ đi trước đã dũng cảm đứng lên để bảo vệ cho một tầm nhìn xã hội mà họ tin là đúng đắn. Thời bấy giờ, người nghệ sĩ đã góp công định hình cách xã hội nhìn nhận người phụ nữ, mang đến cho họ một lối thoát, một niềm an ủi rằng họ được thấu hiểu, được cảm thông, và có người dám đứng về phía họ. Bằng sự liều lĩnh của mình, nghệ thuật chèo đã góp phần thắp lên những thay đổi nhận thức đầu tiên trong xã hội đương thời, gieo mầm cho những chuyển mình tiến bộ của đất nước sau này.

Giờ đây, khi nghe thấy giai điệu chèo mà bà bất chợt ngân nga, tôi không còn xem đó là âm vang của một thời quá khứ đã qua, mà là thành quả của một dòng chảy lịch sử, là sự nỗ lực của bao thế hệ nghệ sĩ. Chính họ đã dùng tài năng, sự sáng tạo, cùng niềm tin mãnh liệt vào lẽ phải và cái đẹp để tạo nên cuộc sống tự do mà tôi, cùng biết bao người trẻ hôm nay, đang được thừa hưởng.

Về tác giả Hà Lan Chi: Cô là một cây bút và dịch giả trẻ tuổi, từng tham gia chương trình viết sáng tạo của các trường đại học danh tiếng và dịch nhiều tác phẩm cho các nhà xuất bản uy tín trong nước. Hà Lan Chi cũng tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng, và là đồng sáng lập của Embers Community, một tổ chức hướng đến việc cải thiện cơ hội giáo dục ở vùng núi, và đã góp phần gây quỹ đáng kể nhằm giúp xây dựng các điểm trường miền núi.

Hà Lan Chi

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm