02/09/2025 15:19 GMT+7 | Văn hoá
Ở bất cứ thời kỳ nào, trước sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc, những nhà thơ mặc áo lính luôn mang trong mình bầu nhiệt huyết và tinh thần dấn thân. Họ vừa cầm súng chiến đấu, vừa cầm bút sáng tác, sẵn sàng nhập cuộc vào sự nghiệp đấu tranh chung của cả dân tộc.
Nhờ vậy, nền thơ ca cách mạng Việt Nam có một thế hệ "làm thơ ghi lấy cuộc đời mình"… Dẫu có những đời sống riêng tư, nhưng dưới bầu không khí cách mạng, họ đều bước vào con đường làm thơ để sống cùng hơi thở thời đại của đất nước, của nhân dân. Sau đây là những chia sẻ của họ.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm: Làm thơ để góp thêm "vũ khí" chiến đấu
80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để tất cả chúng ta ôn lại một chặng đường dài của đất nước, qua chiến tranh, qua những năm tháng hòa bình gian khổ, và qua những thắng lợi hôm nay.
Trong cuộc đấu tranh đó, hình ảnh người lính luôn là trung tâm đời sống chúng ta trong 80 năm qua. Đó là những năm chúng ta phải cầm súng để bảo vệ đất nước, để giải phóng dân tộc và để giữ vững Tổ quốc trong những điều kiện quốc tế phức tạp. Đối với chúng tôi, những người đã tham gia vào thời khắc lịch sử ấy, đó là một vinh hạnh lớn. Có lẽ chúng tôi đã "thừa kế" từ những người thầy, từ các bậc đàn anh, từ các bậc huynh trưởng rằng, công việc chiến đấu chưa xong.
Ba nhà thơ (ở giữa từ trái qua): Vương Trọng, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Sỹ Sáu tại đêm thơ “Những câu thơ viết nên hình đất nước”
Chính vì thế, chúng tôi - những thế hệ được đào tạo để ra trận - đã đi vào miền Nam từ cuối năm 1964 và ở lại đó trong suốt hơn 10 năm, cho đến ngày hòa bình đầu tiên trên đất nước.
Trong những năm tháng đó, tôi không nghĩ rằng mình sẽ làm thơ. Bởi trước hết, công việc là phải giải phóng dân tộc. Nhưng chính trong điều kiện đó, yêu cầu làm thơ trở nên cần thiết, để góp thêm "vũ khí" chiến đấu cho quân và dân ta. Trong những ngày ở miền Nam, chúng tôi hiểu rằng không có lựa chọn nào khác ngoài việc tấn công kẻ địch, giành lại độc lập, hòa bình, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước. Đó là quyết tâm mà gần như không cần bàn nhiều, ai cũng phải làm như vậy. Chúng tôi may mắn được học tập, được rèn luyện ở nhà trường miền Bắc, và khi vào miền Nam, nhận được sự cổ vũ, động viên của đồng đội và các nhà lãnh đạo.
Hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm chúng tôi lúc đó là ra trận vào thời kỳ trẻ nhất của đời mình và đóng góp hết mình cho sự nghiệp giải phóng. Khi vào bộ đội, tôi ghi sâu hình ảnh người đồng đội trao cho tôi khẩu súng để tôi tiếp tục cuộc chiến đấu, ngay tại thành phố Huế. Bởi lúc đó, vũ khí cũng không nhiều, người đi trước hy sinh, thì người đi sau phải cầm súng và tiếp tục. Những câu thơ ngày đó ghi đậm sự biết ơn và dũng khí của những người đi trước, để tiếp tục sự nghiệp chung.
Điều may mắn là những bài thơ này đã sớm đi vào lòng các bạn trẻ, đi vào lòng công chúng, và vẫn còn âm vọng đến ngày hôm nay. Đó là những tình cảm chân thành của chúng tôi đối với cuộc chiến đấu của dân tộc trong những năm quan trọng như vậy.
Nhà thơ Vương Trọng: Những bài thơ đầu tiên là viết về người lính và đất nước
Tôi tốt nghiệp khóa 7, khoa Toán, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1965. Hơn một nửa sinh viên tốt nghiệp chúng tôi sau đó vào phục vụ trong quân đội, cụ thể là tại Cục Quân báo, nghiên cứu và tham dịch mật mã của địch. Công việc vất vả, khó khăn nhưng rất hấp dẫn. Mỗi lần chuyển được tin trên chiến trường, rồi hôm sau nhận được tin chiến thắng, chúng tôi cảm thấy đóng góp của mình thực sự thiết thực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Tôi vốn học Toán nhưng đã yêu thơ từ trước. Trong quá trình học, thời gian làm thơ khá hạn chế, nhưng khi vào quân đội, điều kiện thuận lợi hơn, lại có đề tài chiến tranh và người lính bao trùm khắp nơi - ở nơi ở nhờ nhà dân hay trong đơn vị - nên tôi bắt đầu sáng tác thơ về người lính.
Rất may mắn, trong những chùm thơ đầu tiên của tôi, báo Văn nghệ đã in cả 5 bài trong một lần dự cuộc thi năm 1969, và có 3 bài được trao giải Ba. Năm đó, nhà thơ Phạm Tiến Duật đoạt giải Nhất. Tất cả những bài thơ của tôi đều xoay quanh chiến tranh và người lính.
Trong khi những nhà thơ khác thường viết những bài thơ đầu tiên về gia đình, vợ con, cha mẹ, hay tình yêu, thì chúng tôi, những bài thơ đầu tiên đều viết về người lính và đất nước. Đây là điểm khác biệt nổi bật của thế hệ thơ chống Mỹ cứu nước.
Sau một thời gian không còn ở Cục Quân báo, tôi có 3 năm dạy luyện thi đại học tại trường Văn hóa Quân đội, rồi 35 năm làm phóng viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhờ vậy, tôi có điều kiện đi nhiều nơi - ở đâu có bộ đội đóng quân, tôi đều tìm đến để quan sát, ghi chép và sáng tác. Cuộc sống của bộ đội ngày càng phong phú, và tôi đã viết về những điều đó.
Hạnh phúc lớn nhất của tôi là khi về đơn vị, gặp những đồng chí chưa từng quen biết nhưng lại đọc thơ tôi cho nghe. Nhiều người làm thơ rất thích được nhà phê bình khen, nhưng riêng tôi, niềm vui lớn nhất là khi những bạn đọc chưa quen lại thuộc thơ mình. Đó thực sự là hạnh phúc lớn của người sáng tác.
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Thơ viết bởi nỗi khắc khoải nhớ quê nhà
Tôi là một người lính đi nghĩa vụ quân sự sau năm 1975, lúc đầu trong tâm thế của một người lính thời hòa bình. Đến năm 1977, bọn Pol Pot - Ieng Sary tổ chức tấn công biên giới Tây Nam nước ta với quy mô lớn, và chúng tôi là những người có mặt đầu tiên trong các sư đoàn tại biên giới. Sau đó, đến tháng Giêng năm 1979, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở chiến trường K.
Tâm tưởng của chúng tôi là những người lính chiến đấu xa Tổ quốc. Chúng tôi đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước, luôn khắc khoải trong lòng nỗi nhớ về quê nhà. Ở nơi đây, có 2 mùa rõ rệt:
"Ở đây chỉ có hai mùa
Khô thì nắng cháy, còn mưa rừng lầy
Những người lính chốt ở đây
Nghe thời tiết đổi từng ngày trên da"
Trong suốt những năm ở chiến trường K, chúng tôi cảm nhận từng thay đổi thời tiết trên da mình, để biết rằng mình đã sống nhiều năm nơi chiến trường, với tất cả gian khổ và thử thách của cuộc chiến.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất