Một cảnh trong phim Huyền thoại bất tử
Thiện cảm của giới truyền thông với Huyền thoại bất tử không chỉ ở đó. Đối với phần lớn khán giả, Huyền thoại bất tử là một bộ phim dễ hiểu và dễ xem. Với nội dung và những thông điệp mà nó cố gắng đem đến cho khán giả, lẽ ra Huyền thoại bất tử phải là một bộ phim do nhà nước sản xuất, hay ít ra cũng phải được nhà nước tài trợ phần lớn. Trong khi các đạo diễn trẻ Việt Nam đang loay hoay tìm đường thoát ra gánh nặng của gần năm mươi năm chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, với những thử nghiệm mà phần lớn bị đánh giá là “đáng ngại” hay “lai căng” thì còn gì đáng quí hơn việc một công ty tư nhân và một đạo diễn Việt Kiều lại đầu tư một khoản tiền lớn, với một dàn diễn viên và kỹ thuật viên hùng hậu để đưa những vấn đề xã hội nóng hổi như “chất độc màu da cam”,”nạn buôn bán phụ nữ” hay “mặt trái của Internet” vào một bộ phim mà chủ đề tư tưởng được xác định rất rõ ràng là ca ngợi huyền thoại của tình mẫu tử? Mặc cho những người trông chờ sự thay đổi, những bước ngoặt hay thậm chí chỉ cần những góc nhìn mới ở các đạo diễn và nhà sản xuất được đào tạo ở nước ngoài, đạo diễn Lưu Huỳnh là một minh chứng hùng hồn cho sự tồn tại dai dẳng của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong tư duy sáng tạo của các nghệ sĩ Việt nam.
Thực ra, chủ nghĩa hiện thực không có lỗi! Phần lớn các tác phẩm điện ảnh vĩ đại đều được xây dựng dựa trên cái nền phì nhiêu của chủ nghĩa hiện thực. Có điều, chủ nghĩa hiện thực trong Huyền thoại bất tử của Lưu Huỳnh là một thứ “chủ nghĩa hiện thực ngập ngừng”, một sự phân vân giữa “thể hiện hiện thực” với “ thể hiện chủ đề tư tưởng có sẵn”, giữa “chia sẻ một câu chuyện” với “chia sẻ một ý tưởng” - phần lớn là dập khuôn và cũ kỹ - giữa minh họa ý tưởng bằng các tình tiết trong phim hay để nó diễn ra tự nhiên như cách-nó-phải-có.

Ngập ngừng trong cách anh xây dựng kết cấu của phim. Câu chuyện về chàng thanh niên bị dị tật và chậm phát triển bẩm sinh do nhiễm chất độc màu da cam tên Long (Dustin Nguyen đóng) muốn đưa hài cốt mẹ anh, một võ sư nổi tiếng người Bình Định (Kim Xuân đóng) về yên nghỉ tại Mỹ, bên cạnh Lý Tiểu Long, người anh tin là người cha quá cố của mình, nói cho công bằng, không quá tệ. Vấn đề là ở chỗ, với một câu chuyện như vậy, bài học nhập môn cho người viết kịch bản là tình tiết của bộ phim phải được xây dựng để trả lời câu hỏi: ai cản trở hành trình đó? Nếu đây là một phim tâm lý, thì người cản trở có thể là ai đó đại diện cho những thành kiến của xã hội, hay chính “cái tôi” hay những mâu thuẫn nội tại của nhân vật chính; nếu đây là một bộ phim hành động, thì đó có thể là những thế lực thù địch với nhân vật chính hay người thân của anh ta; nếu đây là một bộ phim hài, thì cản trở sẽ là những tình huống trớ trêu hay hài hước; nếu đây là một bộ phim tình cảm, thì cản trở thường sẽ xuất hiện từ tình cảm của nhân vật nữ chính hay xung đột của nhiều nhân vật nữ khác.
Đạo diễn Lưu Huỳnh không làm như vậy. Sự ngập ngừng của anh đã khiến cho nhân vật của mình bị cuốn theo một câu chuyện “giải cứu mỹ nhân” vốn chẳng liên quan gì đến mạch câu chuyện đã được khơi ra ban đầu, và tất cả những cản trở có thể có đối với hành trình của Long chỉ vẻn vẹn là cái khán giả đã biết được ngay từ những thước phim đầu tiên: trí óc chậm phát triển của Long khiến anh không hiểu nước Mỹ xa cách với Việt Nam đến đâu, và cần những điều kiện tối thiểu gì để đi tới đó. Chưa dừng lại ở đó, đạo diễn Lưu Huỳnh lại đưa thêm vào phim một tuyến câu chuyện thứ ba, tuyến câu chuyện về hình tượng người mẹ-võ sư Lan, một “huyền thoại bất tử” như anh mong muốn xây dựng. Lúng túng không dứt khoát giải quyết yếu tố “chính”, “phụ” trong bộ phim của mình, đạo diễn Lưu Huỳnh đã khiến ba tuyến câu chuyện không hòa được vào với nhau, không hỗ trợ cho nhau, làm kết cấu của bộ phim rất mất cân đối, trở nên “nặng bồng nhẹ tếch”, vừa thiếu vừa thừa. Khi không xác định được tuyến phim chính, đạo diễn sẽ không có đủ thời lượng chuẩn bị cho sự phát triển tâm lý của nhân vật và sự phát triển lo-gic của hành động phim. Thiếu thời gian cho các hành động phim, đạo diễn Lưu Huỳnh buộc phải thay bằng…thoại. Cho nên, thay vì những chi tiết hành động diễn tả tình cảm, thì các nhân vật của phim lại chỉ còn cách lặp đi lặp lại những câu thoại sáo rỗng như “mẹ là cái nôi là cái thuyền đưa Long đi xa", "mẹ lúc nào cũng sống trong tim của Long"...

Ngập ngừng trong việc “thể hiện hiện thực” hay dùng hiện thực để minh họa tư tưởng. Dù ngay ở cảnh đầu, khán giả đã được cho biết bối cảnh của phim là ở thời hiện tại, năm 2009, với những vấn đề xã hội như “chất độc màu da cam”, “buôn bán phụ nữ” khoác hờ hững bên ngoài để tạo nên một cái vỏ hiện đại, nhưng đạo diễn lại thản nhiên định mầu cho bộ phim một vẻ xưa cũ để hợp với ý tưởng xây dựng một hình tượng huyền thoại về người mẹ. Có một chi tiết rất nhỏ trong bộ phim, nhưng lại nói rất nhiều về một trong những điểm yếu cốt tử của đạo diễn Lưu Huỳnh, đó là chi tiết Long đặt lên bàn thờ võ sư Lan một đĩa khế. Chi tiết đó sẽ trở nên có lý, nếu như chúng ta được chuẩn bị từ những cảnh trước rằng đó là món ăn yêu thích của mẹ Long, hay đó là thứ cây trong vườn nhà, hay nó có bất cứ một mối liên hệ nào đó với nhân vật. Nhưng không, chẳng có một sự chuẩn bị trước nào, và đĩa khế được Long đặt một cách trang trọng lên bàn thờ chỉ là sự minh họa trực tiếp bằng hình ảnh cho câu thoại cửa miệng của anh "mẹ là chùm khế ngọt của Long”, một hình tượng do đạo diễn áp đặt mà, xin lỗi nhà thơ Đỗ Trung Quân, đã quá cũ mòn ở Việt nam
Ngập ngừng trong việc khai thác các yếu tố văn hóa của Việt nam. Khi viết về Áo lụa Hà Đông, tôi đã nói đến mặc cảm “thiếu quê hương” - mặc cảm của một số đạo diễn Việt Kiều về lỗ hổng văn hóa Việt Nam của mình, nên phải tìm mọi cách đưa các điển tích của Việt Nam vào phim. Nhưng khi đã đưa các điển tích văn hóa Việt vào phim, thái độ e ngại ngập ngừng với các điển tích này đã dẫn đến việc những đạo diễn như Lưu Huỳnh không dám kế thừa và phát triển các điển tích đó, mà chỉ dám bệ nguyên xi chúng vào minh họa cho ý tưởng của bộ phim. Khi đó, các điển tích văn hóa ấy không hòa nhập được với dòng chảy của bộ phim, mà trở thành những chiếc vật trang sức cứng nhắc vô hồn - (cảnh phim mô tả võ sư Lan chỉ chiếc bóng trên tường nói với Long đó là cha anh về chơi-mượn nguyên si từ Người thiếu phụ Nam Xương-là một ví dụ điển hình).
Ngập ngừng trong việc học tập các thành tựu của điện ảnh thế giới. Chúng ta dễ dàng nhận ra ảnh hưởng của Forrest Gump đối với Huyền thoại bất tử. Cũng là một anh chàng khờ, sống trong tình cảm yêu thương vô bờ của mẹ, cũng những câu nói ngây ngô có vẻ hàm chứa những chân lý giản đơn, cũng cảnh quay bụi tro bay lên mà chúng ta đã từng thấy trong hình ảnh chiếc lông chim bay lên trong Forrest Gump. Nhưng khoảng cách lớn nhất giữa hai bộ phim là nếu trong Forrest Gump, “thế giới sẽ chẳng còn như cũ khi bạn nhìn qua đôi mắt của Forrest Gump”, thì trong Huyền thoại bất tử, hình ảnh thế giới này vẫn chẳng được nhìn khác đi. Nếu khi xem Forrest Gump, những chân lý cực kỳ giản dị của anh làm chúng ta phải xem lại cách suy nghĩ của mình đối với cuộc sống, thì trong Huyền thoại bất tử, việc lặp đi lặp lại “Long không giận anh đâu…Mẹ nói không được giận. Long tha cho anh…” - những suy nghĩ của Long có khác gì suy nghĩ của một anh khùng…thật?
Nhiều người tiếc cho cái kết “vô duyên” của Huyền thoại bất tử, khi tình huống phim đã được đẩy lên cao trào với hình ảnh “siêu thực” của Long bay lên tung nắm tro của mẹ lên bầu trời thì lại tụt xuống với hình ảnh pháo hoa rực rỡ và những lời chúc năm mới rộn ràng. Tôi thì lại nghĩ, cái kết mang đậm dấu ấn “bi kịch lạc quan đó” là hệ quả tất yếu của của một thứ chủ nghĩa hiện thực nửa vời, khi hiện thực không song hành với suy ngẫm, nỗ lực không song hành với sáng tạo, lao động không song hành với văn hóa và ước vọng không song hành với tài năng.
Nguyễn Thanh Sơn