Alfredo Di Stefano: Ngôi sao của các ngôi sao (Kỳ 1)

28/12/2008 07:00 GMT+7 | Thể thao

(TT&VH Online) - Di Stefano, biệt danh “Mũi tên vàng”, đã đi vào lịch sử bóng đá thế giới như một trong những cầu thủ vĩ đại nhất. Thậm chí, rất nhiều chuyên gia bóng đá cho rằng ông còn vĩ đại hơn cả vua bóng đá Pele. Dù cuộc tranh cãi đó sẽ không bao giờ ngã ngũ thì chẳng ai, kể cả các fan của Pele, có thể bác bỏ sự thật Di Stefano là ngôi sao toàn diện nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.
 
Di Stefano in dấu chân trong buổi lễ nhận giải thưởng lưu niệm Bàn chân vàng (Golden Foot) vì có đóng góp lớn cho bóng đá
 

Phần 1: “Mũi tên vàng”

Alfredo Di Stefano sinh ra trong một gia đình Italia nhập cư (bà ngoại ông là người Ireland) tại Barracas, một huyện nghèo ở ngoại ô Đông Nam thủ đô Buenos Aires của Argentina. Cái tên Barracas xuất phát từ “barraca” trong tiếng TBN có nghĩa là những dãy nhà tạm lụp xụp. Là con trưởng trong một gia đình nông dân có 3 con trai, Di Stefano sớm phải lao động nặng. Thế nhưng cuộc sống khó khăn không thể khiến Di Stefano từ bỏ sở thích chơi bóng.

Trái lại, việc phải làm lụng ngoài đồng đã giúp ông tích lũy được thể lực dẻo dai để có thể chơi bóng đá đỉnh cao tới năm 40 tuổi. Không chỉ là một tiền đạo xuất chúng với thể lực bền bỉ, kỹ thuật siêu phàm, nhãn quan chiến thuật và ý chí thi đấu rất cao, ông còn có thể chơi ở nhiều vị trí khác trên sân. Mặc dù vẫn nổi tiếng nhất với vai trò trung phong, Di Stefano còn là một cầu thủ phòng ngự cừ khôi và có thể chơi tốt trong vai trò một tiền vệ giữa hoặc chạy cánh.
 
Thể lực tuyệt vời cho phép Di Stefano ngay sau khi tham gia một tình huống phòng ngự của đội nhà đã vọt lên khu cấm địa của đối phương để ghi bàn. Trong khi Pele giã từ bóng đá quốc tế vào tuổi 30 còn Maradona rời sân khấu bóng đá châu Âu ở tuổi 31, thể lực tuyệt hảo của Di Stefano cho phép ông chơi bóng đá đỉnh cao tại châu Âu cho tới năm 40 tuổi.  
 
“Tôi không biết mình có xuất sắc hơn Pele hay không nhưng tôi có thể nói không chút hồ nghi rằng Di Stefano xuất sắc hơn Pele. Tôi tự hào được nói về Di Stefano. Pele đã gặp khó khăn khi chơi bóng ở châu Âu trong khi Alfredo đã chơi cực hay trên khắp thế giới".
- Diego Maradona -
Thậm chí, cho tới độ tuổi giữa tam tuần, ông vẫn là cầu thủ xuất sắc nhất thế giới lúc đó. “Vua” mới Ở tuổi 12, Di Stefano gia nhập một đội trẻ có tên gọi Los Cardales và sau đó giành chức VĐ giải nghiệp dư với họ. Năm 13 tuổi, ông gia nhập River Plate lừng danh rồi được lên đội 2 năm 15 tuổi. Năm 16 tuổi, Di Stefano lên đội 1 và bắt đầu sự nghiệp thi đấu chuyên nghiệp ở CLB này.
 
HLV đầu tiên của Di Stefano, Carlos Peucelle, nhớ lại: “Tôi chưa bao giờ thấy một cầu thủ có thể lực và ý chí mạnh mẽ như thế. Không có cầu thủ nào tiến bộ nhanh như Alfredo”. Vào thời gian đó, River Plate sở hữu hàng công cực mạnh với những cái tên đáng kính nể như “nhạc trưởng” Adolfo Pedernera và Labruna, hai trong số các cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời của bóng đá Argentina. Bởi thế, Di Stefano chơi trận đầu tiên cho đội không phải ở vị trí trung phong mà là bên cánh phải.

Sau đó, River Plate đã sẵn lòng cho Huracan mượn Di Stefano trong mùa bóng 1946 để ông có chỗ gọt giũa những kỹ năng xuất sắc tiềm ẩn. Thật trớ trêu, Di Stefano đã ghi bàn đem lại trận thắng cho đội bóng mà mình “ăn nhờ ở đậu” khi đối mặt với River Plate. Bàn thắng ở giây 15 sau tiếng còi khai cuộc có lẽ là bàn thắng nhanh nhất trong lịch sử giải VĐQG Argentina.

Năm 1947, trung phong vĩ đại Pedernera bị River Plate bán sang Atlanta. CLB này đã gọi Di Stefano trở về khi họ đánh giá ông đủ khả năng dẫn dắt hàng công. Di Stefano cuối cùng đã đạt được mong muốn thuở nhỏ: chơi đúng vị trí của thần tượng là trung phong Arsenio Erico (Independiente). Với sự hỗ trợ của đồng đội, Di Stefano xé toang mọi hàng phòng ngự đối phương và cùng với các đối tác Moreno, Labruna ở hai cánh lập nên một hàng công đáng sợ nhất tại Nam Mỹ.
 
Trong màu áo River Plate

Trong một trận đấu nổi tiếng của năm đó, River Plate gặp Atlanta có cả ngôi sao cũ của họ là Pedernera trong đội hình xuất phát. Di Stefano đã ghi bàn đem lại chiến thắng trước khi ông bị các fan Atlanta tấn công và phải nhập viện cấp cứu. Atlanta bị xuống hạng Hai. River Plate giành chức VĐ Argentina ngay năm 1947. Họ đã ghi trung bình 3 bàn/trận, với việc riêng Di Stefano đã đóng góp 1/3 số đó. Ông trở thành Vua phá lưới với 27 bàn trong 30 trận.

Tài năng đang nổi lên này tiếp tục phát huy sự tự tin và đã ghi được cả thảy 49 bàn trong 65 trận ở giải VĐQG. Sau một cuộc đình công của các cầu thủ bắt đầu ở Argentina năm 1949, nhiều cầu thủ đã chuyển sang giải VĐ không chính thức của Colombia có tên gọi là Di Mayor. Từ khi không còn nằm trong sự quản lý của FIFA, họ không phải trả phí chuyển nhượng và vì thế các CLB có thể đưa ra mức lương cao hơn. Điều này đã thu hút các ngôi sao hàng đầu Nam Mỹ, trong đó có Di Stefano, tới Colombia.

Tạp chí World Soccer đánh giá Millonarios Of Bogota đã trở thành quyền lực thống trị bóng đá Colombia nhờ thiên tài Alfredo Di Stefano. Có trong đội hình những ngôi sao, chủ yếu là Di Stefano và Pedernera, Millonarios chơi một thứ bóng đá siêu hạng: chính xác, đẹp mắt và chiến thắng. Cũng vì thế mà họ được đặt biệt danh là “Ballet Azul” (Những diễn viên múa ballet xanh da trời - màu áo của họ).

Alfredo ghi tới 267 bàn trong 294 trận chơi cho Millonarios trong thời gian ở Colombia và biến CLB này trở thành vĩ đại nhất lịch sử bóng đá Colombia. Trong vòng chưa đầy 4 năm, Di Stefano đã ghi đủ số bàn thắng để trở thành cầu thủ ghi bàn xuất sắc thứ hai trong lịch sử Millonarios. Sau 12 năm đầu tiên của sự nghiệp ở Argentina và Colombia, Di Stefano đã có 6 chức VĐQG, nhưng đó mới chỉ là một phần nhỏ trong những vinh quang mà ông giành được. (còn nữa)
 
 Alfredo Di Stefano
Tên đầy đủ: Alfredo Di Stefano Laulhe.
Sinh ngày 4/7/1926 tại Buenos Aires, Argentina.
Quốc tịch: Argentina, TBN.
Biệt danh: Mũi tên vàng (La Saeta Rubia).
Cao 1m78.
Vị trí thi đấu chính thức: tiền đạo.
 
* Sự nghiệp cầu thủ
- Các CLB: River Plate (1943-45), Huracan (1945-47), River Plate (1947-49), Millonarios (1949-53), Real Madrid (1953-64), Espanyol (1964-66).
- Các ĐTQG: Argentina (1947, 6 trận/4 bàn), Colombia (1949, 4 trận/0 bàn), TBN (1957-61, 31 trận/23 bàn).
 
* Thành tích
- Tập thể: 2 chức VĐ Argentina (1945, 1947); 1 Cúp Bodas De Oro (1952); 4 chức VĐ Colombia (1949, 1951, 1952, 1953), 8 chức VĐ TBN (1954, 1955, 1957, 1958, 1961, 1962, 1963, 1964); 1 Cúp Nhà vua (Cúp QG TBN - 1962); 5 Cúp C1 châu Âu (1956, 1957, 1958, 1959, 1960); 1 Cúp Liên lục địa (1960); 1 Cúp thế giới các CLB Pequena (1953, 1956); 2 Cúp Latin (1955, 1957); 1 lần VĐ Nam Mỹ (Copa America -1947).
- Cá nhân: 1 lần Vua phá lưới giải VĐ Argentina (1947); 2 lần Vua phá lưới giải VĐ Colombia (1951, 1952); 5 lần Vua phá lưới giải VĐ TBN (Pichichi - 1954, 1956, 1957, 1958, 1959); 2 lần Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu(1957, 1959); Siêu Quả bóng Vàng châu Âu (Super Ballon d’Or - 1989); 48 bàn trong 59 trận ở Cúp C1 châu Âu (kỷ lục duy trì cho tới khi bị Raul Gonzalez cũng của Real Madrid phá năm 2005); Cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất lịch sử của Real Madrid; Cầu thủ xuất sắc nhất TBN trong vòng 50 năm (1954-2004).
 Tú Uyên (tổng hợp)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm