03/09/2025 11:17 GMT+7 | Văn hoá
Trong khuôn khổ Triển lãm thành tựu đất nước "80 năm Hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc", Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam tổ chức Trưng bày chuyên đề "Cộng đồng các dân tộc Việt Nam hội nhập và phát triển".
Xem chuyên đề 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 TẠI ĐÂY
Với gần 600 tài liệu, hiện vật, hình ảnh tiêu biểu, không gian trưng bày phác họa bức tranh văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam thống nhất trong đa dạng, mà còn lan tỏa thông điệp về sức mạnh đoàn kết, khơi dậy niềm tin vào một Việt Nam năng động, hội nhập nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
"Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc"
Việt Nam là ngôi nhà chung của 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy, bất kỳ ở đâu và trong thời điểm nào, đồng bào các dân tộc luôn kề vai, sát cánh cùng nhau chống thiên tai, địch họa, dịch bệnh... Bất cứ một dải đất biên cương nào của Tổ quốc cũng có sự góp sức, không kể máu xương của đồng bào các dân tộc anh em.
Khối đại diện 54 dân tộc Việt Nam tại Lễ kỷ niệm, diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025). Ảnh: Thống Nhất - TTXVN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí minh đã khẳng định: "Nước ta là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp". (1)
Đến dự và phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam (3/12/1945), Bác nhắn nhủ: "Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa". (2)
Tiếp đó, trong "Thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Plâycu" (19/4/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh rằng, "hôm nay, đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ" mà còn khẳng định vai trò và sự đoàn kết giữa các dân tộc anh em đối với sự tồn vong của quốc gia. Trong đó, Người chỉ rõ: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau". (3)
Sinh sống trải dài từ miền núi phía Bắc đến miền Trung, Tây Nguyên đến Tây Nam bộ, đồng bào các dân tộc thiểu số là bộ phận không thể tách rời, là nhân tố quan trọng cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự thống nhất trong ý chí đã làm nên cuộc cách mạng vĩ đại cách đây 80 năm, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó cũng là sức mạnh nội sinh để đất nước thống nhất, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
80 năm qua, thực hiện lời thề thiêng liêng trong Lễ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đồng tâm hiệp lực, không tiếc máu xương, của cải để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc; và nay cùng đồng lòng xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Thống nhất trong đa dạng
Trong 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có lịch sử phát triển, bản sắc văn hóa riêng, tạo nên sự thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Tính thống nhất thể hiện rõ ở ý thức quốc gia, tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, lối sống nhân ái và sự gắn bó cộng đồng. Trong khi đó, tính đa dạng được thể hiện sinh động qua sự phong phú về ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội, trang phục, kiến trúc, tổ chức xã hội và đời sống nghệ thuật.
Mỗi dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam là một thực thể văn hóa độc đáo, kết tinh từ quá trình lao động, sáng tạo và thích nghi với môi trường tự nhiên, xã hội qua nhiều thế hệ. Những bộ trang phục truyền thống rực rỡ, được dệt thêu công phu của người Mông, Dao, Ê Đê… không chỉ phản ánh vẻ đẹp thẩm mỹ, mà còn chứa đựng giá trị lịch sử, nghệ thuật và nhân sinh quan của từng tộc người. Những làn điệu dân ca then, khèn, cồng chiêng… hay các lễ hội đặc sắc như Gầu Tào, Ok Om Bok… là minh chứng sống động cho sức sống bền bỉ của văn hóa dân gian trong đời sống cộng đồng.
Các nghệ sĩ trình diễn hát Then tại gian trưng bày Nghệ thuật biểu diễn, khu triển lãm 12 ngành công nghiệp văn hóa tại triển lãm thành tựu. Ảnh: Phương Lan - TTXVN
Và với hơn 6.000 lễ hội dân gian lớn nhỏ, các làng quê Việt Nam trở thành những điểm hội tụ của tín ngưỡng dân gian, nơi cộng đồng tưởng nhớ công đức tổ tiên, tôn vinh anh hùng dân tộc, thực hành nghi lễ và thể hiện đời sống tinh thần phong phú. Những lễ hội tiêu biểu như Hội Gióng, Lễ hội Đống Đa, Lễ hội Chùa Hương, Yên Tử… vừa mang giá trị lịch sử sâu sắc, vừa là cơ hội để các thế hệ gắn kết, giáo dục đạo lý "uống nước nhớ nguồn", vun đắp tinh thần cố kết cộng đồng. Nhiều lễ hội còn phản ánh khí phách quật cường chống giặc ngoại xâm, khơi dậy niềm tự hào và ý thức trách nhiệm với vận mệnh đất nước.
Đặc biệt, không gian văn hóa dân gian - từ dân ca quan họ, ca trù, hát xoan đến dân ca ví giặm - là kho tàng nghệ thuật phi vật thể quý giá, kết tinh từ lao động sáng tạo và đời sống tinh thần của Nhân dân. Đây không chỉ là những giá trị nghệ thuật đặc sắc, mà còn là biểu hiện sâu đậm của tinh thần dân tộc, gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của cộng đồng làng xã - đơn vị cơ sở của xã hội Việt Nam truyền thống.
Đồng bào dân tộc Nùng tỉnh Lạng Sơn giới thiệu làn điệu hát Then truyền thống, hòa cùng tiếng đàn tính. Ảnh: Vân Chi/TTXVN
Có thể khẳng định rằng, văn hóa Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng - một chỉnh thể hài hòa giữa các sắc thái văn hóa khác nhau, trong đó tính thống nhất không triệt tiêu sự đa dạng, mà chính là cơ sở để các sắc màu văn hóa có cơ hội giao thoa, bổ sung và làm giàu cho nhau. Quá trình tiếp xúc, học hỏi và kế thừa giữa các dân tộc trong đại gia đình văn hóa Việt Nam đã tạo nên một nền văn hóa giàu bản sắc nhưng luôn chuyển động, cởi mở, thích ứng với sự biến đổi của thời đại.
"Kề vai sát cánh", đồng lòng đi tới
Một Việt Nam thống nhất trong đa dạng không chỉ là khẩu hiệu mà là thực tế được bồi đắp qua hàng nghìn năm lịch sử; được kế thừa, phát triển, phát huy trong hiện tại và trong cả tương lai. Đó là động lực gắn kết cộng đồng để hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045 - cột mốc lịch sử kỷ niệm 100 năm thành lập nước.
Năm 2025 - năm cuối của nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ XIII, dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức nhưng tình hình kinh tế-xã hội của nước ta vẫn giữ đà tăng trưởng. Chính phủ vẫn kiên định mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 8,3-8,5%, tốc độ tăng CPI bình quân dưới 4,5%, tạo nền tảng thuận lợi cho tăng trưởng năm 2026 đạt từ 10% trở lên.
Phụ nữ dân tộc Thái (Sơn La) trình diễn điệu múa gậy truyền thống. Ảnh: Vân Chi/TTXVN
Cùng với nhân dân cả nước, đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục "kề vai sát cánh" cùng chính quyền các cấp thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Trong giai đoạn mới, đóng góp của đồng bào các dân tộc sẽ nhiều hơn, bởi đời sống người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế các tỉnh vùng dân tộc thiểu số và miền núi khá cao, trong đó các tỉnh vùng Tây Bắc tăng bình quân 8,0%/năm, Tây Nguyên tăng bình quân 7,5%/năm, Tây Nam Bộ tăng bình quân 7,0%/năm. Thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 43,4 triệu đồng/năm, tăng 3,1 lần so với năm 2020. Kết quả này bồi đắp thêm niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng, Nhà nước, nỗ lực hơn, tự tin hơn để đồng hành cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Niềm tin đó càng được củng cố từ sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước dành cho đồng bào các dân tộc. Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030, tổ chức ngày 13/8/2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định giai đoạn 2026-2030, đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được thụ hưởng một chương trình mục tiêu quốc gia độc lập, với tổng nguồn lực dự kiến 150 nghìn tỷ đồng. Đây là sự ưu tiên, đồng thời cũng là một cam kết đồng hành của Chính phủ cho sự phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để không ai bị bỏ lại phía sau.
Phiên chợ vùng cao trở nên sôi động với những điệu múa, làn điệu dân ca đặc sắc do đồng bào Mường, Thái, Dao, Mông, Tày…trình diễn. Ảnh: Vân Chi/TTXVN
*** Theo Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, nước ta có 53 dân tộc thiểu số với dân số trên 14,4 triệu người, cư trú trên địa bàn chiếm khoảng 3/4 diện tích tự nhiên của cả nước. Sau sắp xếp địa giới hành chính và tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, cả nước có khoảng 1.516 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trên địa bàn 32 tỉnh, thành phố.
(1): Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội - 2011, t.12, tr.371.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.130
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.249
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất