Thực hiện Nghị quyết 57: Khoa học, công nghệ - động lực đột phá của nông nghiệp Việt Nam

17/11/2025 15:28 GMT+7 | Tin tức 24h

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá khoa học, công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã mở ra tầm nhìn mới cho mọi lĩnh vực, trong đó có ngành nông nghiệp - "bệ đỡ" của nền kinh tế. 

Không chỉ là công cụ hỗ trợ sản xuất, KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang trở thành động lực trung tâm, tạo nên sức bật mới cho nông nghiệp Việt Nam trên hành trình hiện đại hóa, xanh hóa và hội nhập sâu rộng.

Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, chế biến nông nghiệp hiện nay: thực tiễn và thành tựu

Trong suốt chiều dài phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam, KHCN luôn là "đòn bẩy" quan trọng tạo nên những bước tiến vượt bậc. Từ những năm đầu của công cuộc đổi mới, việc ứng dụng tiến bộ khoa học đã giúp nông nghiệp Việt Nam thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, chuyển mình mạnh mẽ sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu đặt ra cho ngành nông nghiệp không chỉ là đủ ăn mà phải hướng tới năng suất, chất lượng, hiệu quả và bền vững. Chính trong bối cảnh ấy, KHCN trở thành "chìa khóa", là nền tảng không thể thiếu để tạo ra giá trị gia tăng cao và khẳng định vị thế của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Thực hiện Nghị quyết 57: Khoa học, công nghệ - động lực đột phá của nông nghiệp Việt Nam - Ảnh 1.

Các mô hình trồng dưa lưới trong nhà kính áp dụng công nghệ tưới nước nhỏ dọt mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nông dân của tỉnh An Giang. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Trong những năm gần đây, ứng dụng KHCN trong sản xuất và chế biến nông nghiệp đã có những chuyển biến mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chỉ riêng trong giai đoạn 2021-2025, hệ thống pháp luật về KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường đã được hoàn thiện với quy mô và tốc độ chưa từng có. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, tham mưu trình và ban hành đồng bộ: 14 văn bản của Đảng định hướng chiến lược phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; 9 luật liên quan trực tiếp đến quản lý và phát triển KHCN; 20 nghị định của Chính phủ và 5 quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết cơ chế, chính sách; 24 thông tư chuyên ngành và 2 quy chế quản lý KHCN của Bộ. Hệ thống pháp lý này đã tạo khung khổ thống nhất, minh bạch, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống. Đây cũng là nền tảng để gắn kết chặt chẽ KHCN với thực tiễn phát triển nông nghiệp, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.

Cùng với việc hoàn thiện thể chế, tổ chức bộ máy KHCN trong ngành Nông nghiệp và Môi trường được củng cố và phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, toàn ngành nông nghiệp có 21 viện nghiên cứu, 34 trường đào tạo và 181 phòng thí nghiệm chuyên ngành, trong đó nhiều phòng đạt chuẩn quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học hơn 11.400 người, gồm 44 giáo sư, 283 phó giáo sư, 1.668 tiến sĩ và gần 5.000 thạc sĩ, là lực lượng trí tuệ nòng cốt góp phần chuyển giao tri thức mới vào thực tiễn. Nhiều nhà khoa học không chỉ tập trung nghiên cứu ở phòng thí nghiệm mà đã trở thành những "kỹ sư của đồng ruộng", gắn bó với nông dân, cùng tạo nên sức mạnh đổi mới từ cơ sở.

Đầu tư cho KHCN trong nông nghiệp cũng ngày càng được quan tâm. Trong giai đoạn 2021-2025, tổng chi sự nghiệp KHCN đạt 4.687 tỷ đồng, trong đó 76,7% dành cho lĩnh vực nông nghiệp; trong đó, chủ yếu dành cho nghiên cứu giống, bảo quản, chế biến và phòng chống dịch bệnh; 23,3% dành cho lĩnh vực môi trường, tập trung vào giảm phát thải khí nhà kính và bảo tồn đa dạng sinh học. Nhờ đó, hàng trăm đề tài nghiên cứu, dự án ứng dụng đã được triển khai, hàng nghìn mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ mới được nhân rộng.

Thành tựu của KHCN trong nông nghiệp những năm qua là rất đáng ghi nhận. Đã có 225 giống cây trồng, vật nuôi mới được công nhận có năng suất, chất lượng cao, khả năng chống chịu tốt với sâu bệnh và biến đổi khí hậu; 150 tiến bộ kỹ thuật được áp dụng, 158 bằng sáng chế và giải pháp hữu ích được cấp; hơn 3.600 bài báo quốc tế được công bố, tăng gần 50% so với giai đoạn trước. Các kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng sâu rộng trong thực tiễn. Nhờ đó, năng suất nhiều loại cây trồng, vật nuôi tăng từ 10-30%, chi phí sản xuất giảm rõ rệt, giá trị nông sản nâng cao, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2024 vượt mốc 53 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay.

Đằng sau những con số ấy là sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển nông nghiệp. Nếu trước đây, KHCN chủ yếu tập trung vào cải tiến giống và kỹ thuật canh tác, thì nay, phạm vi ứng dụng đã mở rộng đến toàn bộ chuỗi giá trị - từ sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ. Các công nghệ sau thu hoạch, công nghệ sinh học, tự động hóa, cơ giới hóa, thậm chí trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn cũng được ứng dụng ngày càng sâu, giúp gia tăng hàm lượng khoa học trong từng sản phẩm nông nghiệp. Những mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở Lâm Đồng, nông nghiệp thông minh tại Đồng Tháp, hay chuỗi nông sản số ở Bắc Giang là minh chứng sống động cho xu hướng phát triển này.

Thực hiện Nghị quyết 57: Khoa học, công nghệ - động lực đột phá của nông nghiệp Việt Nam - Ảnh 2.

Nông dân An Giang sử dụng drone phân xịt thuốc giúp tiết kiệm chi phí, công sức và thời gian. Ảnh: Công Mạo-TTXVN

Đặc biệt, trong giai đoạn vừa qua, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai mạnh mẽ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), viễn thám, GIS trong quản lý đất đai, khí tượng, dự báo thiên tai, kiểm kê phát thải khí nhà kính. Đã hoàn thành 35 đề tài nghiên cứu phục vụ Chính phủ số, đặt nền móng cho quản lý thông minh, ra quyết định nhanh và chính xác. Xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về nông nghiệp và môi trường, từng bước liên thông với dữ liệu dân cư, tài chính và thị trường carbon. Chuyển đổi số không chỉ giúp ngành nông nghiệp quản trị hiệu quả hơn mà còn trực tiếp phục vụ người dân và doanh nghiệp thông qua các dịch vụ công trực tuyến, sàn thương mại điện tử nông sản, bản đồ vùng trồng, vùng nuôi.

Nhìn tổng thể, KHCN đã trở thành "trụ cột đổi mới" của ngành Nông nghiệp và Môi trường. Từ những cánh đồng lúa chất lượng cao ở Đồng bằng sông Cửu Long, đến vùng nuôi trồng thủy sản thông minh ở Nam Trung Bộ hay mô hình nông nghiệp hữu cơ tại miền Bắc, dấu ấn của KHCN đều hiện hữu rõ rệt. Đó là minh chứng cho tầm nhìn của Đảng và Nhà nước trong việc coi KHCN là động lực then chốt, là nguồn lực chiến lược để nông nghiệp Việt Nam không chỉ phát triển nhanh mà còn phát triển bền vững, xanh và hội nhập sâu với thế giới.

Nghị quyết 57 - định hướng chiến lược cho nông nghiệp Việt Nam phát triển xanh, bền vững

Thành tựu to lớn của ngành nông nghiệp trong những năm qua đã trở thành nền tảng vững chắc để nông nghiệp Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng bứt phá mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam hiện cũng đối mặt với nhiều thách thức, như: tài nguyên thiên nhiên suy giảm, biến đổi khí hậu diễn biến cực đoan, yêu cầu của thị trường quốc tế về tiêu chuẩn xanh, truy xuất nguồn gốc và phát thải carbon ngày càng khắt khe…

Trong bối cảnh đó, Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của Bộ Chính trị ra đời (ngày 22/12/2024) không chỉ là lời giải cho yêu cầu cấp bách của thời đại mà còn là định hướng chiến lược, tạo hành lang thể chế đột phá cho phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thực hiện Nghị quyết 57: Khoa học, công nghệ - động lực đột phá của nông nghiệp Việt Nam - Ảnh 3.

Ứng dụng chuyển đổi số cho xuất khẩu sản phẩm OCOP. Trong ảnh: Sản phẩm mỳ gạo của HTX Tiến Diện đạt OCOP 3 sao đến từ Thái Nguyên đã được tiêu thụ tại thị trường Đức. Ảnh: Trần Việt - TTXVN

Bám sát tinh thần chỉ đạo, ngày 27/3/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành Quyết định số 503/QĐ-BNNMT về Kế hoạch đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tích hợp đầy đủ mục tiêu của hai lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, với các chỉ tiêu cụ thể cho từng mảng, gắn chặt với mục tiêu tổng thể của Nghị quyết 57-NQ/TW.

Kế hoạch này không chỉ là bước đi cụ thể hóa tinh thần của Trung ương, mà còn là "kim chỉ nam hành động" giúp Bộ Nông nghiệp và Môi trường định hình mô hình quản trị hiện đại, thúc đẩy đổi mới tư duy phát triển và khai thác tối đa tiềm năng của KHCN, dữ liệu và nhân lực. Theo Quyết định số 503/QĐ-BNNMT, ngành tập trung triển khai 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức và đổi mới tư duy, tạo quyết tâm chính trị mạnh mẽ về vai trò của KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ngành đặt mục tiêu đến năm 2030, ít nhất 25% lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ có chuyên môn, kinh nghiệm về các lĩnh vực này. Đây không chỉ là yêu cầu về nhân sự, mà còn là bước khởi đầu của sự thay đổi về tư duy quản lý - từ hành chính sang kiến tạo, từ kinh nghiệm sang tri thức.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, đưa thể chế thành lợi thế cạnh tranh. Bộ đặt mục tiêu đến cuối năm 2025 sẽ cắt giảm thêm 59 quy chuẩn, đồng thời hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các đơn vị, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch trong quản lý và hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Việc hoàn thiện thể chế cũng gắn liền với yêu cầu "số hóa quy trình", chuyển mọi thủ tục hành chính lên không gian mạng.

Thứ ba, tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng KHCN và chuyển đổi số. Bộ đã yêu cầu các đơn vị trực thuộc rà soát, đánh giá thực trạng để trình cấp có thẩm quyền kế hoạch đầu tư trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các dự án ứng dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, dữ liệu lớn vào quản lý và sản xuất nông nghiệp.

Thứ tư, phát triển và trọng dụng nhân tài. Bộ đang nghiên cứu cơ chế đặc thù để thu hút, bồi dưỡng và trọng dụng nhân lực KHCN, nhất là chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, xây dựng đề án đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các lĩnh vực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là nền tảng để hình thành các nhóm nghiên cứu xuất sắc, có khả năng dẫn dắt và lan tỏa tri thức trong toàn ngành.

Thứ năm, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện. Mục tiêu đặt ra là 100% thủ tục hành chính của Bộ được xử lý trực tuyến toàn trình vào năm 2030, tối thiểu 85% trong năm 2025. Các quy trình nội bộ sẽ được rà soát, cắt giảm, hướng tới phục vụ người dân và doanh nghiệp nhanh, hiệu quả, minh bạch. Hệ thống dữ liệu đất đai, tài nguyên, sản xuất, môi trường sẽ được số hóa và kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia, giúp nâng cao năng lực quản lý và dự báo.

Thứ sáu, thúc đẩy hoạt động KHCN đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp. Bộ sẽ ưu tiên hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong ứng dụng công nghệ, tự động hóa, thương mại điện tử và truy xuất nguồn gốc nông sản.

Thực hiện Nghị quyết 57: Khoa học, công nghệ - động lực đột phá của nông nghiệp Việt Nam - Ảnh 4.

Cà Mau nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác xã gắn chuyển đổi số. Trong ảnh: Sử dụng cơ giới hóa trong thu hoạch lúa từng bước xây dựng nền nông nghiệp hiện đại. Ảnh: TTXVN phát

Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp tục huy động cộng đồng quốc tế hỗ trợ đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ, chia sẻ dữ liệu và kinh nghiệm quản trị số, hướng tới mục tiêu đưa KHCN và đổi mới sáng tạo của Việt Nam vươn tầm khu vực và thế giới.

Song song với 7 nhóm nhiệm vụ, Bộ cũng xác định 15 điểm nghẽn lớn cần tháo gỡ để tạo đột phá thực sự cho KHCN. Trong đó, đáng chú ý là: đặt đội ngũ nhà khoa học vào vị trí trung tâm của đổi mới sáng tạo; khắc phục cơ chế "bao cấp" triệt tiêu động lực; nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc cho nhà nghiên cứu; tránh đầu tư dàn trải, lãng phí nguồn lực; đẩy mạnh cơ chế tự chủ trong nhiệm vụ, tài chính và tổ chức; phát triển quỹ tín dụng và đất đai cho các dự án KHCN. Đây là những giải pháp then chốt giúp "khơi thông dòng chảy" sáng tạo, gắn nghiên cứu với thực tiễn sản xuất, để khoa học thực sự trở thành lực đẩy của tăng trưởng nông nghiệp hiện đại.

Với những định hướng và giải pháp cụ thể, việc triển khai Nghị quyết 57 trong ngành Nông nghiệp và Môi trường không chỉ tạo đột phá về KHCN và chuyển đổi số, mà còn góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn ngành. Khi KHCN gắn liền với đổi mới tư duy và cải cách thể chế, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiến bước vững chắc trên con đường trở thành nền nông nghiệp xanh, sinh thái, thông minh và hội nhập sâu với thế giới.

Minh Duyên/TTXVN

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm