03/12/2025 11:00 GMT+7 | Tin tức 24h
Các đợt mưa lũ lớn liên tiếp cuối năm 2025 đã đặt hệ thống hồ chứa trước những thách thức chưa từng có.
Một hồ chứa đơn lẻ không thể bảo vệ cả lưu vực sông, nhưng một mạng lưới hồ chứa đồng bộ và được vận hành khoa học hoàn toàn có thể giảm thiểu thiệt hại cho hàng vạn người dân vùng hạ lưu. Điều đó đòi hỏi việc phối hợp linh hoạt giữa các hồ thủy điện – thủy lợi, áp dụng các quy trình vận hành liên hồ chứa thích ứng và chủ động giảm xả lũ trong những tình huống khẩn cấp.
Thách thức trước thiên tai cực đoan, dị thường
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng – Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam đánh giá, những đợt mưa gần đây ở Trung Bộ cho thấy đặc điểm bất thường, "vượt mức vài chục năm mới xảy ra một lần". Mưa không chỉ rất lớn mà còn kéo dài nhiều ngày liên tiếp. Trong thủy văn, lũ dài ngày là loại nguy hiểm nhất khi hồ chứa đã đầy, vùng trũng bão hòa, rừng không còn khả năng thấm, nước mưa bao nhiêu đổ xuống hạ lưu bấy nhiêu, làm giảm đáng kể khả năng tiêu nước của lưu vực. Đáng lo hơn, nhiều khu vực đã ghi nhận hiện tượng "lũ kép", nhưng phần lớn quy trình vận hành các hồ chứa hiện nay vẫn dựa trên mô hình lũ đơn nên không theo kịp diễn biến thực tế.

Mưa lũ đang gây ngập lụt sâu trên diện rộng ở các tỉnh miền Trung. Ảnh: Nguyễn Thành - TTXVN
Trước tình trạng nhiều hồ nước đồng loạt xả khi lũ lên cao, GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho rằng, khó khăn lớn nhất hiện nay nằm ở chỗ "không ai tư vấn cho Chủ tịch tỉnh phải xả lũ sớm", dù có dự báo mưa lớn. Khi thời tiết còn bình thường, việc yêu cầu mở cửa xả trước 2–3 ngày là một quyết định rất khó, đặc biệt trong bối cảnh nhiều sở ngành địa phương thiếu chuyên gia thủy văn – thủy lực đủ năng lực phân tích các kịch bản dòng chảy để tham mưu. Trong khi tại Nhật Bản hay Trung Quốc, mỗi khu vực đều có văn phòng thủy văn trực 24/7 trong mùa lũ.
Ông Nguyễn Quốc Dũng cho rằng, nếu Việt Nam chưa xây dựng được mô hình này một cách chính quy, có thể tính đến giải pháp xã hội hóa dịch vụ tư vấn để hỗ trợ quyết định vận hành các hồ chứa kịp thời và khoa học hơn.
Một trong những điểm nghẽn lớn trong phối hợp vận hành liên hồ chứa hiện nay là sự khác biệt về mục tiêu giữa thủy điện và thủy lợi. Thủy điện gắn với an ninh năng lượng, nên việc hạ thấp mực nước hồ để đón lũ luôn đi kèm rủi ro thiếu nước phát điện nếu mưa không về. Thực tế này từng xảy ra với hồ Hòa Bình năm 2017.
Vì vậy, nhiều chuyên gia từng đề xuất giải pháp "mua dung tích phòng lũ", tức sử dụng quỹ phòng chống thiên tai để bù phần sản lượng điện hoặc chi phí mà chủ hồ mất đi khi phải xả sớm theo yêu cầu chống lũ. Đây được xem là phương án hài hòa lợi ích, khuyến khích chủ hồ tích cực tham gia nhiệm vụ phòng lũ một cách tự giác và minh bạch, ông Nguyễn Quốc Dũng chia sẻ.

Hệ thống thủy lợi tại Đắk Lắk bị hư hỏng nguy cơ ảnh hưởng đến lịch sản xuất của vụ Đông xuân 2025-2026. Ảnh: Tuấn Anh - TTXVN
Một vấn đề nữa cũng được ông Nguyễn Quốc Dũng cảnh báo là các tuyến giao thông lớn như đường bộ cao tốc hoặc đường sắt cao tốc nếu "chắn ngang" miền Trung sẽ làm chậm thoát lũ. Tương tự, ở Thái Nguyên, tư duy chỉ nâng cao đê mà không bố trí không gian thoát lũ cũng không bền vững. Do đó, cần tích hợp các quy hoạch như: quy hoạch thủy lợi, phòng chống thiên tai phải đồng bộ với quy hoạch hạ tầng.
Thực tế việc vận hành liên hồ chứa ở nước ta cho thấy quy trình được chia thành ba thời kỳ: đầu vụ, giữa vụ và cuối vụ. Cuối vụ phải tích đủ nước để phục vụ mùa khô. Tuy nhiên, các trận lũ năm nay đến dồn dập và dị thường vào cuối mùa, khi nhiều hồ đã tích nước cao, dẫn đến dung tích phòng lũ còn lại thấp.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh này, hồ thủy lợi và hồ thủy điện cần phối hợp chặt chẽ hơn và Ban Chỉ huy phòng thủ dân sự các cấp phải phát huy vai trò điều phối. Khi tổng dung tích hồ chứa cả nước khoảng 70 tỷ m³; trong đó khoảng 55 tỷ m³ thuộc các hồ thủy điện, thì việc chống lũ không thể chỉ trông vào hệ thống hồ thủy lợi.
Ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, trước mỗi dự báo mưa lớn, đơn vị luôn yêu cầu các địa phương phải tiêu thoát nước trên hệ thống thủy lợi, các hồ chứa có cửa van điều tiết thực hiện điều chỉnh linh hoạt mực nước hồ để chủ động đón lũ, bảo đảm tuyệt đối an toàn công trình và không xả lũ bất thường gây mất an toàn cho vùng hạ du. Những đợt lũ vừa qua, nhiều hồ thủy lợi lớn như Cấm Sơn, Núi Cốc, Tả Trạch… đã vận hành đúng quy trình và phát huy tốt vai trò cắt giảm lũ, có hồ giảm được hàng chục phần trăm lưu lượng xả so với lưu lượng về.

Đập xả tràn hồ Dầu Tiếng, nằm trên địa bàn ba tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Min, nơi điều tiết lưu lượng nước quan trọng cho vùng hạ du trong mùa mưa lũ. Ảnh: Thanh Tân - TTXVN
Thực tiễn vận hành tại hồ Cửa Đạt (Thanh Hóa) cho thấy, khi có dự báo tin cậy và tuân thủ nghiêm phương án, việc chủ động xả đón lũ mang lại hiệu quả rõ rệt. Ông Lê Bá Huân, Trưởng Phòng Quản lý thi công, phụ trách Chi nhánh Cửa Đạt (Ban Đầu tư và Xây dựng thủy lợi 3) cho biết, hồ đã chủ động hạ mực nước và cắt lũ lớn trong nhiều cơn bão vừa qua. Đơn cử như trước bão số 10, hồ hạ gần 4,3 m mực nước, tạo 116 triệu m³ và khi lũ đến cắt thêm 145 triệu m³, giảm gần 4.000 m³/s đỉnh lũ.
Nhưng đó chỉ là các hồ chứa lớn, được trang bị đầu tư hệ thống nghiên cứu, ứng dụng khoa học tiên tiến và hệ thống cơ sở dữ liệu đầy đủ. Hiệu quả chung của các hồ chứa "vẫn chưa đạt kỳ vọng", nhất là với các hồ chứa thủy lợi chỉ có tràn tự do, không có cửa van điều tiết. Các hồ lớn có đội ngũ tư vấn tốt thường tự tin hạ thấp mực nước đón lũ, trong khi nhiều hồ nhỏ chủ đầu tư chỉ dám duy trì ở mực nước dâng bình thường để tránh thiếu nước mùa khô.
Như tại Trung Bộ vừa qua, hồ thủy điện Sông Ba Hạ (Đắk Lắk) bị cho là "gây lũ", nhưng cần nhìn thẳng vào quy mô và sức chứa của hồ này. Theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, nguyên Giảng viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường, thủy điện Sông Ba Hạ là hồ chứa nhỏ, khả năng điều tiết lũ hạn chế. Mực nước chết của hồ là 101 m, còn mực nước dâng trong điều kiện lũ chỉ 105,96 m. Như vậy, dù hạ xuống mực nước chết, hồ chỉ có khoảng 5 m dung tích hữu ích, ứng với khoảng 165 triệu m³. Với dung tích này, với lượng mưa lớn như vừa qua, lũ đạt đỉnh, hồ chỉ có thể giữ được nước khoảng ba giờ dù đã về mực nước chết. Do đó, việc giảm lũ của hồ Sông Ba Hạ là nhiệm vụ rất thách thức.
Đổi mới quản trị lưu vực
Theo các chuyên gia, khi phê duyệt mục tiêu đầu tiên cho các hồ thủy điện là phát điện. Bối cảnh hiện nay cần sửa đổi quy định cần hài hòa lợi ích các bên. Việc quản lý nguồn nước phải từ thượng lưu đến hạ lưu, không phân biệt ngành quản lý. Quản lý phải theo lưu vực sông, không theo địa giới hành chính từ đó có giải pháp điều tiết nước tổng thể. Hồ chứa phải đảm bảo đa mục tiêu là: đảm bảo an toàn công trình, cắt giảm lũ hiệu quả cho vùng hạ du và cấp nước phục vụ phát triển kinh tế.

Nhà máy Thủy điện Trung Sơn tại xã Trung Sơn, tỉnh Thanh Hóa có công suất 260 MW vận hành an toàn mùa mưa bão. Ảnh: Nguyễn Nam - TTXVN
Hiện cả nước có 11 quy trình vận hành liên hồ chứa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, áp dụng trên những lưu vực sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Hương, sông Vu Gia – Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Kôn – Hà Thanh, sông Ba, sông Sê San, sông Serepok và sông Đồng Nai. Mới đây, nhằm tăng tính linh hoạt trong vận hành hồ chứa để ứng phó với các tình huống lũ bất thường, lũ muộn trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thời tiết trở nên bất thường, cực đoan, làm xuất hiện lũ lịch sử, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định Sửa đổi bổ sung một số điều của quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hồng. Việc điều chỉnh quy trình vận hành này để sử dụng hồ chứa phải hài hòa giữa nhu cầu: phát điện (an ninh năng lượng); phòng, chống thiên tai và cấp nước.
Thực tế, khi lũ về, hồ chứa luôn vận hành theo nguyên tắc: xả thấp hơn hoặc tối đa bằng lưu lượng nước đến hồ. Nếu xả thấp hơn lưu lượng về nghĩa là hồ đang tích nước, đồng nghĩa làm giảm lượng nước chảy xuống hạ du, từ đó giảm lũ. Còn nếu xả đúng bằng lưu lượng về, hồ hoạt động như một đoạn sông bình thường, tức là có hồ hay không cũng không làm tăng lũ hạ du, PGS. TS Vũ Thanh Ca phân tích.
Để thích ứng bền vững với biến đổi khí hậu và thiên tai cực đoan, TS. Nguyễn Huy Hoạch, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam đề xuất chuyển sang mô hình quản trị tích hợp khí hậu - thủy năng (IHCM) với ba hướng trọng tâm là Quy hoạch phòng lũ hạ du; Nâng cấp cảnh báo sớm; Điều chỉnh quy trình vận hành liên liên hồ chứa phù hợp với biến đổi khí hậu và sẵn sàng đầu tư vào công trình phòng lũ chuyên dụng.
Theo PGS.TS. Hoàng Thái Đại, Hội Thủy lợi Việt Nam, nguyên tắc quản lý tổng hợp theo lưu vực sông đã được đề ra nhiều năm, song vai trò của các Ban quản lý lưu vực vẫn mờ nhạt. Việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước cần thống nhất từ Trung ương đến địa phương và sự phối hợp liên ngành để giảm thiểu thiệt hại và đảm bảo an toàn cho người dân.
Bài cuối: Sức ép nâng cấp cảnh báo
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất