SơnX: Tôi tưởng tượng tiếp tục làm nghệ thuật, nhưng không phải như hiện nay!

09/11/2009 09:43 GMT+7 | Âm nhạc

(TT&VH Cuối tuần) - Mươi năm trước, SơnX đã là một cái tên trong giới làm nghệ thuật đương đại đang manh nha ở Hà Nội, song ít người biết mặt anh và được nghe âm nhạc của anh. Không tuyên ngôn, cứ lặng lẽ như một thứ nghệ thuật ngầm (underground). Nhưng SơnX đã đi được rất xa trên con đường mà không ít đồng nghiệp vẫn còn loanh quanh ở điểm xuất phát: Hiện SơnX là nhạc sĩ sáng tác trong đoàn múa đương đại Pháp Dada (của nữ nghệ sĩ Ea Sola), có nhiều tác phẩm được đặt hàng từ các đoàn nghệ thuật châu Âu. Anh cũng là khách mời chính thức tại cuộc biểu diễn xuyên Việt Gặp gỡ nhạc mới Hà Nội 2009 mới kết thúc với nhiều dư âm tại Hà Nội và TP.HCM.

Âm nhạc đương đại không “phá” âm nhạc truyền thống


 Ảnh: Lizo Glennard
* Tại sao anh lại có cái tên SơnX? Phải chăng đó là tinh thần nghệ thuật đương đại?


- Không, đơn giản chỉ là một cái tên cho mọi người dễ phân biệt thôi, không liên quan gì đến tinh thần nghệ thuật đương đại cả. Cả tên đệm là Xuân Sơn, bạn bè nước ngoài khó đọc, nên tôi giản lược đi, chỉ lấy chữ cái đầu, nhưng nếu để X Sơn nghe không vần lắm nên đặt nó ra đằng sau thấy có vẻ tốt hơn thôi.

* Xuất hiện trong chương trình Gặp gỡ nhạc mới với tư cách một nghệ sĩ sáng tác và trình diễn có lẽ cũng là lần đầu tiên anh xuất hiện trước công chúng TP.HCM trong tư cách một nhạc sĩ nhạc đương đại, trong khi từ lâu anh đã hoạt động trong khu vực này và cũng là nhạc sĩ đương đại duy nhất ở Việt Nam thường xuyên có hợp đồng đặt hàng từ các đoàn nghệ thuật nước ngoài. Thứ “nhạc mới” mà anh làm phải chăng chỉ hướng tới công chúng quốc tế hay chỉ công chúng quốc tế mới thưởng thức được nó?

- Nói chính xác nhất là có vẻ công chúng trong nước đang dần quan tâm hơn đến nhạc đương đại nên các nhạc sĩ đang theo đuổi dòng nhạc đó có những cơ hội để bộc lộ mình với khán giả. Bởi Gặp gỡ nhạc mới Hà Nội 2009 không phải lần đầu tiên tôi xuất hiện trước công chúng trong nước. Mặc dù phần lớn thời gian và công việc của tôi là ở nước ngoài, nhưng cũng rất cố gắng để mỗi năm có một cái gì đó tại Việt Nam. Trước đây tác phẩm của tôi xuất hiện tại Việt Nam trong một cộng đồng nhỏ những người quan tâm đến nghệ thuật đương đại. Và tín hiệu đáng mừng cho âm nhạc đương đại Việt Nam là càng ngày đối tượng quan tâm đến nó càng lớn hơn. Cho dù bước đầu là sự tò mò thì cũng vẫn đáng mừng, vì hơn chục năm về trước thậm chí người ta còn cho rằng đó không phải nghệ thuật, không phải âm nhạc. Nghệ sĩ sáng tác nhạc đương đại có sự lựa chọn nào khác ngoài đưa tác phẩm của mình ra nước ngoài biểu diễn đâu. Cá nhân tôi luôn thấy thích thú mỗi khi tác phẩm của mình được diễn tại Việt Nam và rất hạnh phúc mỗi khi thấy nó được khán giả trong nước đón nhận.

* Có người gọi âm nhạc của anh và các đồng nghiệp cùng khuynh hướng là “nhạc đương đại”, “nhạc thể nghiệm”, còn lần này, là “nhạc mới”. Anh thích cách gọi nào hơn, nói cách khác, anh vẫn tự gọi âm nhạc của mình là nhạc gì?

- Tôi cho rằng đó là nhạc đương đại. Nhạc đương đại xuất hiện khoảng giữa thế kỷ XX, có nguồn gốc từ nhạc cổ điển. Nói chung nhạc đương đại đề cao tính cá nhân, không gò bó trong khuôn khổ nào cả. Sự tự do trong cách thức thể hiện là điều khiến nhạc đương đại có một sự phát triển mạnh mẽ và rất phong phú về chủng loại. Bao gồm trong đó là nhạc kinh điển đương đại (contemporary classical music), nhạc thể nghiệm (experimental music), âm nhạc tối giản (minimalist music), nhạc điện tử (electronic music), nhạc tiếng động (noise music), nhạc vi tính (computer music), performance music, hoặc music theater. Mặc dù rất phong phú về chủng loại như vậy nhưng có một cụm từ trong vài năm gần đây xuất hiện khá nhiều tại Việt Nam, mà tôi chưa từng thấy có tại bất cứ nơi nào trên thế giới là “dòng nhạc Dân gian - Đương đại”. “Dòng nhạc” này theo tôi được biết hiện thế giới chưa có định nghĩa hay khái niệm gì về nó cả. Cũng có thể các nhạc sĩ Việt Nam hoặc các nhà lí luận âm nhạc Việt Nam sẽ là những người đầu tiên đưa thêm một khái niệm mới làm giàu cho nhạc đương đại thế giới sau này. Không nói trước được điều gì, có lẽ lịch sử sẽ làm nhiệm vụ của nó.

* Xuất thân từ gia đình có truyền thống âm nhạc dân tộc, bản thân cũng từng là một nghệ sĩ trống chèo của Nhà hát chèo Việt Nam, ngã rẽ nào đưa anh đến với âm nhạc đương đại? Tại sao anh không đi đến cùng con đường âm nhạc truyền thống mà tìm cách “phá” nó bằng thứ âm nhạc mà một số người “cổ điển” còn không chịu coi đó là âm nhạc?

- Tôi đã có một tuổi thơ khá phóng túng tự do vì mẹ thường đi lưu diễn xa nhà, bố đi du học tại Liên Xô cũ từ khi tôi mới sinh ra và cho đến gần 10 tuổi, tôi sống với bà ngoại. Bố tôi là một người rất nghiêm khắc và dường như tất cả sự thương yêu của ông dồn vào tôi. Ông muốn tôi trở thành một người đàn ông hoàn thiện theo cách ông nghĩ, nên ngay khi về nước ông bắt đầu đưa tôi vào kỷ luật. Mọi sinh hoạt của tôi lúc đó đều nằm dưới sự giám sát khắt khe của ông và chỉ một lỗi nhỏ ngay lập tức có thể bị đòn. Kể cả việc đến với nghệ thuật truyền thống cũng là do ông lựa chọn.

Ở nhà sống trong khuôn khổ kỷ luật của bố, đến trường sống trong những quy định, lề lối, khuôn phép của nghệ thuật truyền thống, nên khát khao của sự tự do thường trực khá mạnh trong mình. Năm 1994, Ea Sola Thủy bắt đầu dàn dựng Hạn hán và cơn mưa, cô cần tìm nhạc công gõ truyền thống và tôi may mắn được lựa chọn vào thành phần dàn nhạc. Đó là ngã rẽ quan trọng nhất trong sự nghiệp âm nhạc của tôi. Mặc dù phải nói rằng lúc đó tôi chẳng hiểu gì về nghệ thuật đương đại cả, nhưng thấy rất tò mò và thích thú về nó. Có thể vì trong đó tôi được tự do làm cái mình muốn, khám phá những điều trước đây không dám đi, điều tôi thiếu thốn khi còn sống trong gia đình cũng như ở môi trường cũ của mình. Bản thân Ea Sola Thủy cũng nhận thấy trong tôi có những tố chất của sự sáng tạo, cộng với một nền móng khá vững chắc với nghệ thuật truyền thống nên sau Hạn hán và cơn mưa, cô tiếp tục mời tôi trong tất cả các tác phẩm Ngày xửa ngày xưa (1997), Cánh đồng Âm nhạc (1998), Thế đấy Thế đấy (1999), Khúc cầu nguyện (2000), Hạn hán và cơn mưa Vol.2 (2005), Đường bay (2007), Cơ thể trắng (2008) với vị trí nhạc công, rồi trợ lý nghệ thuật, và đến nay tôi là nhạc sĩ sáng tác chính của đoàn.

Các sáng tác của tôi lấy chất liệu hoặc cảm hứng từ nhạc truyền thống Việt Nam chứ không phải cải biên nhạc truyền thống nên tôi chưa bao giờ nghĩ mình đang phá truyền thống cả. Tôi cho rằng chỉ có những người đang nói là làm truyền thống mà làm không đúng nó mới là phá thôi. Sáng tác nhạc đương đại không có nghĩa xa rời nhạc truyền thống, trái lại sự tiếp xúc của tôi với nó ngày càng sâu sắc và thật thà hơn.

Trong gia đình cả nhà làm nghệ thuật truyền thống, lúc đầu cũng không hiểu lắm những gì tôi làm. Tuy nhiên không ai phản đối cả, bởi tôi có sự may mắn đi vào với nghệ thuật đương đại bằng con đường khá chính thống và chuyên nghiệp ngay từ những bước đầu.

* Thật tiếc những tác phẩm múa của Ea Sola còn ít được phổ biến với công chúng Việt Nam và như vậy công chúng trong nước cũng hiếm có cơ hội biết được những tác phẩm của anh...

- Các tác phẩm như Cánh đồng âm nhạc, Thế đấy Thế đấy, Khúc cầu nguyện và cả Hạn hán và cơn mưa Vol.2 đều đã biểu diễn tại Việt Nam, chỉ có điều có vở diễn tại Hà Nội, có vở diễn tại Festival Huế mà không công diễn tại TP.HCM. Có nhiều lí do, và một trong những lý do là kinh phí tài trợ không đủ để vở có thể lưu diễn. Tôi mong rằng trong thời gian gần, đoàn sẽ có dịp công diễn tác phẩm mới nhất tại Việt Nam, vì được diễn tại nơi của mình, với khán giả của mình luôn luôn là điều hạnh phúc với tôi.

Hiện chỉ những thứ na ná hoặc giả vờ là “sống” được!


 Ảnh: Đặng  Xuân Trường
* Thời “thuần dân tộc”, anh có sống được bằng âm nhạc dân tộc không? Và bây giờ anh sống bằng âm nhạc đương đại như thế nào?


- Tôi cho rằng thời điểm của nghệ thuật truyền thống đích thực có thể sống được bằng nghề của mình chưa tới. Hiện nay chỉ những thứ na ná nghệ thuật truyền thống, hoặc giả vờ nghệ thuật truyền thống thì sống được thôi. Trước đây tôi có thu nhập không tồi lắm với những thứ kiểu như vậy. Nhưng tôi luôn thấy rằng những thứ đó không phải đúng với những gì tôi được biết, được cảm về nghệ thuật truyền thống. Nó có một ngoại hình bắt chước truyền thống, nhưng tinh thần hoàn toàn không phải. Nghệ thuật truyền thống mộc mạc, tế nhị, chân thành hơn, sâu sắc và sang trọng hơn nhiều. Vậy nên khi có điều kiện để không phải làm những thứ đó kiếm sống nữa, tôi thấy thật hạnh phúc và may mắn. Tôi luôn tin rằng khi chất lượng cuộc sống xã hội cao hơn, nghệ thuật truyền thống thực sự sẽ có lại vị trí của mình, và mong những nghệ sĩ của nghệ thuật truyền thống không bỏ phí những tài sản thực sự quý giá đã có để đi làm những thứ du lịch dễ dãi như bây giờ.

Hiện tại phần lớn công việc của tôi là sáng tác và lưu diễn ở nước ngoài, tuy nhiên mỗi khi ở Việt Nam thì cũng tương đối bận rộn với những việc liên quan đến nghệ thuật. Nói chung nguồn thu ổn định nhất với tôi cho đến giờ là âm nhạc đương đại.

* Không ít nghệ sĩ Việt Nam đã và đang chọn nghệ thuật đương đại, trong đó có âm nhạc đương đại, nhưng hiệu quả thành công như anh vẫn còn là của hiếm. Thực tế anh may mắn hay biết cách vào được thị trường nghệ thuật đương đại quốc tế?

- Trước tiên tôi cho rằng mình may mắn. May mắn vì ngay khi tiếp cận với nghệ thuật đương đại đã đi vào môi trường rất chính thống và chuyên nghiệp. Môi trường đó rất khắt khe và luôn đòi hỏi chất lượng hoàn hảo. Áp lực luôn đè lên người nghệ sĩ và nếu muốn tồn tại, không thể làm giả ăn thật được. Môi trường đó đồng nghĩa với những liên hoan nghệ thuật, những nhà hát danh tiếng nhất trên thế giới, nên các tác phẩm diễn ra ở đó cũng rất đáng để nuôi dưỡng đầu óc của mình. Hàng ngày mình được xem, nghe, biết được nghệ thuật thế giới đang đi đến đâu rồi, để không bị lạc hậu với thời cuộc. Tất nhiên sau sự may mắn đó là nỗ lực của chính mình, làm việc và làm việc rất nhiều.

* Làm thế nào để một nghệ sĩ đương đại Việt Nam hiện nay có thể bước vào môi trường chính thống và chuyên nghiệp? Anh có thể chia sẻ kinh nghiệm cụ thể nào?

- Tôi không có kinh nghiệm cụ thể nào ngoài sự làm việc với hết tấm lòng của mình ở từng tác phẩm.

* Anh có nhìn thấy con đường phía trước của mình sẽ như thế nào không?

- Tôi chỉ tưởng tượng thôi, còn không biết phía trước mình sẽ thế nào cả. Tôi tưởng tượng rằng mình vẫn tiếp tục làm nghệ thuật, nhưng không phải như hiện nay, mà với một mô hình khác, rộng hơn.

* Theo đương đại, nhưng dường như anh vẫn nặng lòng với nghệ thuật truyền thống. Tôi được nghe nói về hai dự án “khổng lồ” mà anh khởi xướng, một là dự án tổ chức hát xẩm đương đại tại Hà Nội, và hai là dự án xây dựng bảo tàng về tuồng. Xin hỏi, tại sao anh làm vậy và hiện giờ dự án ra sao?

- Vâng, nghệ thuật truyền thống luôn trong tôi, ngay cả khi tôi đang làm nghệ thuật đương đại. Hầu như trong tất cả các tác phẩm của tôi chưa khi nào vắng bóng nó cả. Và càng ngày nó xuất hiện trong tác phẩm của tôi càng đậm đặc hơn, cho dù gần đây có những tác phẩm không có một nét truyền thống Việt Nam nào cả. Nói như vậy có vẻ hơi trừu tượng, nhưng thực sự trong tôi tinh thần truyền thống mạnh hơn việc sử dụng nó một cách bề ngoài. Trong Gặp gỡ nhạc mới Hà Nội 2009 vừa rồi, tôi có làm Một gương mặt số 4 mà sử dụng trong đó có vài tiếng đàn tranh thôi. Trước đây tôi đã làm mấy tác phẩm Một gương mặt rồi. Có tác phẩm là âm nhạc, có tác phẩm là video art, tuy nhiên bằng cách này hay cách khác tôi đều muốn đề cập đến nghệ thuật truyền thống. Ở mỗi tác phẩm nghệ thuật truyền thống sẽ xuất hiện dưới một gương mặt khác nhau.

Cũng vì luôn nghĩ đến nghệ thuật truyền thống nên mới nghĩ đến việc phải xây dựng một bảo tàng về nghệ thuật tuồng Việt Nam. Bởi tôi nhận thấy rằng nếu không làm ngay bây giờ thì cơ hội để những thế hệ sau muốn thưởng thức, tìm hiểu, hoặc nói luôn cả những thế hệ trực tiếp làm nghề tuồng về sau muốn làm hay, làm đúng là rất ít. Hiện tại các nghệ sĩ trẻ của nghệ thuật tuồng đã không biết vẽ mặt thế nào cho đúng vì không hiểu ý nghĩa của các nét, màu sắc... Quần áo cũng chả hiểu cần phải mặc những gì cho một vai diễn. Chưa kể các nghệ nhân làm trang phục và đạo cụ cho tuồng cũng đã mất gần hết, nếu không ghi chép, lưu giữ lại sau này không biết phải làm thế nào nữa. Cần có một hệ thống toàn bộ mặt nạ, trang phục, đạo cụ, quay tư liệu về vũ đạo, thu âm nhạc và hát. In sách để thế hệ sau có căn cứ để còn làm. Tuồng có nhiều phong cách, tuồng Bắc, tuồng Trung, tuồng Nam, không thể quy đồng làm một được. Tuồng nói riêng và nghệ thuật truyền thống Việt Nam nói chung đang bị mai một trầm trọng. Hầu như ở tất cả các bộ môn nghệ thuật truyền thống đều cần sự bảo tồn một cách sâu sắc, có nghiên cứu nghiêm túc, chứ không phải khẩu hiệu, hình thức như hiện nay, chỉ làm méo mó hình ảnh của nó trong công chúng thôi. Tuy nhiên từ mong muốn để đến thực hiện cũng nhiều vấn đề, mà một trong những vấn đề quan trọng nhất hiện nay là tiền. Mà tôi cũng còn khá bận với những công việc âm nhạc không còn thời gian nào để có thể đi vận động tài trợ làm việc đó. Nên cứ tạm gác nó ở đó vậy.

Với Xẩm Thời nay thì là một dự án cộng đồng, không liên quan đến nghệ thuật truyền thống. Định làm từ 1997, tôi có suy nghĩ rằng mỗi thời có cái xẩm riêng của nó, và bản chất xẩm là hát xin tiền. Giờ đưa xẩm bà Cầu lên sân khấu thì còn gọi gì là xẩm nữa. Thời Hà Nội có tàu điện thì sinh ra cái xẩm tàu điện, tàu điện hết, xẩm đó cũng biến mất. Giờ có những người hát rong với cái nhạc của họ và tôi nghĩ rằng đó là xẩm của hiện nay. Lúc đó tôi đã tập trung được khoảng 10 người hát rong, và họ có thể tập cùng tôi khoảng 1 tháng, tất nhiên tôi sẽ trả tiền cho họ đủ với số tiền bình quân mỗi ngày họ xin được, để có thể tập cùng nhau. Đích thân tôi sẽ dàn dựng cho họ. Và sau đó khoảng 1 tháng tự họ sẽ đứng chơi nhạc ở vị trí ổn định, kiểu như ở phố cổ, hoặc những nơi tập trung khách du lịch, không ảnh hưởng đến giao thông. Như vậy họ vừa xin được nhiều tiền, vừa không phải lang thang khắp nơi, và dần dần những người hát rong khác thấy mô hình làm việc hiệu quả sẽ tụ nhau lại thành một cộng đồng, rồi chia nhau thành các nhóm chơi nhạc ở các điểm khác nhau trong thành phố. Như thế sẽ tạo cho họ công việc, chứ giờ cứ mỗi khi thành phố có lễ hội, hay kỷ niệm gì lại đuổi họ đi vùng khác, thấy cũng khổ. Nhưng hồi đó dự án không xin được giấy phép của Sở Văn hóa Hà Nội nên cũng không thực hiện được.

* Anh có nghĩ đến việc tiếp tục đeo đuổi những mong ước đó không?

- Nếu có cơ hội và điều kiện tôi cũng vẫn muốn làm, nhưng thực sự mà nói thì không còn nhiều thời gian và năng lượng để đeo đuổi nó.

* Nhạc sĩ đương đại Kim Ngọc, vợ anh, người chủ xướng nhiều buổi biểu diễn âm nhạc đương đại, rất tích cực tìm kiếm cơ hội và tạo cơ hội để đưa được nghệ thuật của cô ấy đến với công chúng trong nước, các dự án của cô ấy đều thành công. Có vẻ ngược lại với anh, sớm bi quan trước thất bại và co mình về làm cho mình là chính?

- Tôi không bi quan và cũng không nghĩ rằng mình thất bại gì cả. Bởi hai dự án đó mang tính xã hội nhiều hơn là tính nghệ thuật cá nhân. Bảo tàng về tuồng có phải làm cho tôi đâu, tôi muốn xây dựng cho Nhà hát tuồng Việt Nam, qua đó bảo tồn luôn cho nghệ thuật tuồng, còn xẩm thời nay là công việc nghĩ về những người hát rong ngoài đường. Nếu có điều kiện thì làm, còn không thì việc chính vẫn là nghệ thuật của cá nhân mình.

* Cả hai anh chị đều là những nghệ sĩ đương đại, cuộc sống gia đình của anh chị nghe nói cũng rất “đương đại”: vợ chồng độc lập, vợ xây nhà và nuôi con...?

- Tôi không có thói quen nói về đời sống riêng nên xin phép được giữ nó cho mình.

* Cảm ơn những chia sẻ nghề nghiệp của anh!

Vân Hạc (thực hiện)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm