17/05/2009 15:18 GMT+7 | Văn hoá
Bài thơ điện ảnh đầu tiên: dành cho Jane Fonda
* Thưa nhà BK Lê Nguyên, ông đã viết và đoạt giải thưởng nhiều kịch bản (KB) ở hầu hết các thể loại thời sự, tài liệu, hoạt hình, biên tập cho các phim truyện nổi tiếng (Cánh đồng hoang, Vùng gió xoáy - ĐD Hồng Sến), sao ông không viết một KB, theo xu hướng phim truyện, tài liệu với các nhân vật thật hay chí ít là hồi ký, tự truyện thể loại “hot” hiện nay, thu hút nhiều người xem, dư luận?
- Tôi làm thơ từ hồi trai trẻ. Thú thật, trai Hà Nội, con nhà tư sản, biết tiếng Pháp lại yêu nghệ thuật, thì chuyện thơ nhạc là tất yếu thôi. Tôi viết từ trong chiến tranh đến thời bình, là kỷ niệm về các chuyến làm phim vào chiến trường với bạn đồng nghiệp, những bài thơ phim, như nhật ký xúc cảm. Tôi không quan tâm đến trào lưu, thời thượng. Với tôi, thơ là tiếng nói nhạy cảm, tinh tế nhất của tâm hồn. Thơ và điện ảnh là hai chị em.
* Ông viết “máy quay, bút là vũ khí”. Như vậy, cuộc đời nghệ thuật của ông cũng là đời chiến sĩ?
- Suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi luôn xuống tận chiến trường để viết bài (phụ trách Anh dũng - tờ báo duy nhất của Sư đoàn 312), huy động cả anh em phóng viên cùng chiến đấu. Nhiều phóng viên lao vào tuyến lửa, ra mặt trận. Những tên phim mang tên những địa danh, trận đánh ác liệt; nhiều thước phim phải trả bằng máu những liệt sĩ quay phim. Nền ĐA cách mạng VN là nền ĐA trưởng thành trong chiến tranh, vì thế đề tài chiến tranh vẫn là ám ảnh... Làm sao quên được chiếc com-măng-ca phủ đầy lá ngụy trang, từ xưởng phim lên đường ngày 25/9/1965 vào Nghệ An, Hà Tĩnh nhưng chỉ mình tôi sống sót trở về, còn anh Trần Bảo (đạo diễn), Thái Dũng (quay phim), Nhân (chủ nhiệm), Đính (lái xe) đều ngã xuống vì bom đạn.
Đặt tên con trai (Lê Thiết Cương) theo tên của đồng đội! “Tôi đã có mặt ở Điện Biên Phủ từ trận đầu Him Lam đến trận cuối cùng. Con trai tôi sinh tại khu gang thép Thái Nguyên và bạn tôi là Thiết Cương, Tiểu đoàn trưởng Sư đoàn 312 đã ngã xuống trước trận tổng công kích bắt sống tướng De Castries. Vì thế mà con tôi mang tên “Thiết Cương” (tâm sự Lê Nguyên). |
* Trong 41 bài thơ của tập thơ điện ảnh, bài thơ nhiều tuổi nhất viết năm 1972 dành cho minh tinh lừng lẫy Jane Fonda. Xin ông hãy kể về kỷ niệm đặc biệt này?
Hôm ấy, có các ĐD: Trần Vũ, Hải Ninh, Trần Đắc, BK Hoàng Tích Chỉ, nhà quay phim Nguyễn Đăng Bảy, Nguyễn Quang Tuấn, diễn viên Trà Giang, ông Hà Xuân Trường (Thứ trưởng Bộ VH) và lãnh đạo Cục ĐA, giám đốc các hãng phim. Tất cả cùng Jane im lặng nghe bài thơ: “Từ một ngôi sao xa lạ/Chị đã trở nên ngọn lửa ấm gần/Jane Fonda! Cái tên giờ đây sao thân thiết hiền hòa.../ Từ một ngôi sao xa lạ trên màn bạc cuối trời/Bạn đã trở thành ngọn lửa ấm gần bên mỗi chúng tôi”.
Dứt bài Jane chạy đến ôm chầm lấy tôi. Sau đó, bài thơ được in trên tạp chí Điện ảnh ở HN và cả tờ Tin sáng tại Sài Gòn.
Làm thơ về điện ảnh
* Đọc tập thơ, thấy cả hành trình ĐA của ông qua các mối quan hệ thân ái với bạn nghề, lịch sử điện ảnh từ thời ở chiến khu đồi cọ, bưng biền, tới các phim nổi tiếng của những tên tuổi đã thành kinh điển của ĐA cách mạng!
- Làm thơ như thế, là ghi nhận giá trị phim, sự nghiệp của bạn, cũng như ấn tượng của mình. Có thơ cho các nghệ sĩ: ĐD Khương Mễ, Trương Qua, Xuân Phượng, NSND Trà Giang, vợ chồng NSƯT Lân Bích - Minh Đức; cho phim: Còn lại một mình, Cánh đồng hoang, Điệp khúc hy vọng (Hồng Sến), Cho đến bao giờ, Về nơi gió cát (Huy Thành), Bài ca đầu chỉ là nốt nhạc (Xuân Thành), Hoa cát, Tình không biên giới (Lê Văn Duy), Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế (Trần Văn Thủy)...
Bài Có một tình yêu không biên giới tặng ĐD Pháp Samuel do chính tôi dịch ra tiếng Pháp. Lãnh sự quán Pháp tại TP.HCM đã chọn dịch để giới thiệu 10 bài thơ của tôi.
![]() “Thôi không còn diễn nữa/ Xa rời ống kính trường quay/ Con sông quê hương nước vẫn vơi đầy/ Vẫn chở phù sa đắp bồi ruộng bãi/ Trà Giang trên bầu trời sao còn sáng mãi/ Trong hình tượng chân dung cô gái Việt Nam/ Trong nét đẹp kiên trung, đằm thắm dịu dàng/ Như tia lửa cháy đến tận cùng sức sống/ Như hương một loài hoa mãi còn lắng đọng...” (Trích Nét cọ hồn quê - thơ Lê Nguyên, đề tặng Trà Giang - diễn viên, hoạ sĩ). |
- Tại Đại hội ĐA V (2000), tôi đọc tham luận thơ kêu cứu cho phim hoạt hình, ghi nhận giá trị của thể loại này, cũng là để động viên cho các đồng nghiệp hoạt hình - một thể loại thiệt thòi về vật chất (tiền đầu tư) và tên tuổi ít được quảng bá. Tại ĐH lần VI, 8/2005, tôi đọc Những thước phim từ trái tim dâng hiến, tưởng nhớ những người đã mất trong chuyến làm phim 1965.
Tôi còn tham luận bằng thơ ở Moskva. Đó là tháng 10/1983, tại hội thảo nghệ thuật phim truyện VN - Liên Xô, tôi và BK Vũ Lê Mai đi dự cùng ĐD Trần Đắc (trưởng đoàn) phía VN chưa tạo được ấn tượng gì, ĐD Trần Đắc lo quá, vì sáng hôm sau là buổi cuối cùng. Đêm ấy, tôi viết chùm 3 bài lấy tên 3 bộ phim Moskva không tin vào nước mắt, Người đàn bà xa lạ, Những người đàn ông và “giữ chặt” không cho anh phiên dịch đi chơi, nhờ dịch cho xong đêm hôm ấy. May sao, phía bạn thích thú đón nhận.
* Xin cảm ơn ông!
Vi Thùy Linh (thực hiện)
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất