Người lính Trường Sơn: Kỳ công trong lịch sử chiến tranh (Bài 1)

20/04/2009 10:05 GMT+7 | Thế giới

(TT&VH) - Thấm thoắt đã gần 50 năm ngày đường Trường Sơn được mở (19/5/1959 – 19/5/2009) kể từ chuyến giao liên gùi đồ đầu tiên, chúng tôi trở lại con đường này, nơi từng tấc đất đều thấm máu xương cha anh, những người lính, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến đổ xuống cho sự nghiệp thu non sông về một mối.

Nói như nhà báo Van Geirt trong cuốn “Đường Hồ Chí Minh” thì: “Đối với đường Hồ Chí Minh, muốn chiếm được nó phải chiếm đóng trên mỗi milimet vuông của Lào, Cao Miên và cả miền Bắc lẫn miền Nam Việt Nam bằng tất cả quân đội của thế giới này may ra mới đủ!”.

Đi vào sử xanh

Theo tài liệu của Binh đoàn 12 – Tcty Xây dựng Trường Sơn cung cấp, ngày 5/5/1959, Thượng tá Võ Bẩm nhận nhiệm vụ tổ chức “đoàn công tác quân sự đặc biệt” mở đường vận chuyển hàng quân sự vào Nam; tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ; chuyển công văn, tài liệu hai chiều Nam – Bắc. Đến 19/5/1959, Thường trực Tổng Quân ủy chính thức giao nhiệm vụ cho Đoàn mở đường Trường Sơn chi viện cho chiến trường miền Nam; ngay trong năm 1959, Đoàn có nhiệm vụ soi đường, bảo đảm giao thông liên lạc từ Bắc vào Nam, vận chuyển gấp một số hàng quân sự theo yêu cầu của Liên khu 5 và đưa 500 cán bộ hành quân vào chiến trường làm nòng cốt xây dựng lực lượng chủ lực, với yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật, không để đối phương biết được sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Biên chế bước đầu của Đoàn 559 chỉ có 500 cán bộ chiến sĩ, ngoài Đoàn bộ, Đoàn sẽ tổ chức Tiểu đoàn vận tải bộ 301 và các bộ phận xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm.

Cây cầu dây văng đầu tiên nằm trên đường Đông Trường Sơn xưa, thuộc đoạn Đakrông – A Lưới và con đường do bộ đội Trường Sơn xây dựng theo tiêu chuẩn cấp 4, láng nhựa từ năm 1973 – 1974.


Đầu tháng 6/1959, Đoàn trưởng vào Hồ Xá, Vĩnh Linh để họp bàn cụ thể việc mở đường vào Nam, mặc dù đã tiến hành hết sức bí mật nhưng mạng lưới tình báo, gián điệp của địch vẫn “đánh hơi” thấy. Ngay sau đó, Đoàn 559 tổ chức ngay đội khảo sát mở tuyến hành lang, bắt đầu từ Khe Hó phát triển về hướng Tây Nam, điểm đặt trạm cuối cùng là Pa Lin, kế cận trạm tiếp nhận của Liên khu 5. Đoàn đã tuyển chọn được 440 cán bộ chiến sĩ, tổ chức hoàn chỉnh được 1 tiểu đoàn, biên chế thành 11 đội (9 đội vận tải, 1 đội trinh sát bảo vệ, 1 đội xây dựng hậu cứ). Tất cả đều phải tuyệt đối giữ bí mật ngay cả với gia đình, người thân; hoàn toàn tự nguyện, sẵn sàng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Bộ đội được huấn luyện thể lực, tăng cường sức chịu đựng, chủ yếu là tập mang vác nặng, hành quân xa trong điều kiện đêm tối, trên địa hình phức tạp. Ngày 20/8/1959, chuyến hàng gùi thô đầu tiên từ Khe Hó (Tây Nam Vĩnh Linh) đã được bàn giao cho Liên Khu 5 gồm 20 khẩu súng tiểu liên Tuyn, 20 súng trường Mát và 10 thùng đạn.

Trong diễn văn kỷ niệm quốc khánh đầu tiên thống nhất đất nước năm 1975 do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đọc, có đoạn: “Con đường Hồ Chí Minh xuyên qua dãy núi Trường Sơn hùng vĩ và nối liền Nam – Bắc là một kỳ công trong lịch sử chiến tranh, là biểu hiện oai hùng của sức mạnh đoàn kết chiến đấu của nhân dân cả nước. Địch càng dùng trăm phương ngàn kế để ngăn chặn nó, đánh phá nó thì nó càng phát triển nhanh chóng và vững chắc theo nhịp độ của chiến tranh, để đến mùa Xuân năm 1975 góp phần quan trọng vào thắng lợi huy hoàng giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu”.

Con đường chưa từng có


Gần 20.000 cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trên tuyến đường Trường Sơn, hơn 32.000 người khác bị thương. Chiến sĩ Nguyễn Minh Thông (quê Nghệ An) trở thành liệt sĩ đầu tiên hy sinh ngay từ tháng 10/1959. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn hiện là nơi yên nghỉ của hơn 10.300 liệt sĩ bộ đội Trường Sơn đến từ mọi miền tổ quốc. Tại văn bia Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có đoạn: “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng sự đóng góp của bộ đội Trường Sơn, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến vào công cuộc chi viện cho các chiến trường sẽ mãi mãi ghi vào trang sử oanh liệt của dân tộc ta, của quân đội ta như một thiên anh hùng ca bất diệt”

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đoàn 559 – Bộ đội Trường Sơn đã đào đắp, san lấp khoảng 29 triệu m3 đất đá; xây dựng mạng lưới đường bộ gồm 5 hệ thống đường trục dọc, 21 đường trục ngang ở Đông và Tây Trường Sơn với tổng chiều dài gần 2 vạn km; 1 tuyến đường “kín” dài 3.140km và hệ thống đường sông dài 500km. Đồng thời đã xây dựng hệ thống đường ống dẫn xăng dầu dài 1.400km nối từ tuyến của hậu phương ở Quảng Bình, Vĩnh Linh vào tới Bù Gia Mập (Bình Phước – Miền đông Nam Bộ). Trên tuyến xăng dầu có một không hai này có 113 trạm bơm đẩy, 33 trạm cấp phát xăng dầu; từ 1968 – 1975 đã nhập vào tuyến 317.596 tấn, trong đó cấp phát cho các chiến trường 61.064 tấn xăng dầu.

Bộ đội Trường Sơn cũng đã xây dựng trên 4.000 km đường dây trần dùng cho máy tải ba, 11.569km đường dây bọc thông tin hữu tuyến, 384km dây cáp và các thiết bị như 299 bộ máy thu phát sóng ngắn, 163 bộ tải ba; 590 tổng đài từ 10 đến 100 số, 15 xe điện đài từ 15w tới tới 104AM. 78.000 hố bom được san lấp, phá 12.600 quả bom từ trường, 8.000 bom nổ chậm, 85.100 mìn các loại. Bộ đội Trường Sơn tham gia đánh 2.500 trận bộ binh, loại khỏi vòng chiến đấu 18.740 tên địch, bắt sống 1.190 tên, thu và phá hủy hơn 100 xe quân sự, bắn rơi 2.455 máy bay các loại. Tổ chức vận chuyển, hành quân đưa hơn 2 triệu lượt bộ đội, cán bộ vào, ra qua Trường Sơn; vận chuyển tới các chiến trường hơn 1 triệu tấn vật chất kỹ thuật.

Đồng chí Phan Mài đã gùi nặng 100kg trong nhiều chuyến liền. Đồng chí Nguyễn Thiều thồ xe đạp mỗi chuyến 420kg. Chiếc xe thồ đầu tiên được đưa vào Trường Sơn từ năm 1961 là chiếc xe Favorit có số khung 20.220, từ năm 1963 – 1965, đại đội 9 (đoàn 70) đã dùng chiếc xe này thồ 1.800 tấn hàng vào chiến trường. Năm 1966, chiếc xe được đưa về trạm 34 và tiếp tục trong hai năm 1969 – 1970 đã chở được 50 thương binh, 450 ba lô, 1.000kg lương thực, thực phẩm, tiết kiệm thêm được 500 công cán bộ.

Biết bao nhiêu huyền thoại


Trường Sơn là chiến trường thực nghiệm chiến lược “chiến tranh ngăn chặn”, “chiến tranh bóp nghẹt” bằng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt với các loại vũ khí, thiết bị tối tân của nền khoa học công nghệ Mỹ. Núi rừng Trường Sơn luôn bị rung chuyển bởi bị cày đi, xới lại bởi hơn 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học trút xuống. Điểm mở đầu của đường Trường Sơn (Tân Kỳ, Lộc Ninh, Nghệ An) hôm nay đã trở thành một trong những nơi thu hút hàng chục vạn lượt khách về thăm lại chiến trường xưa.

Không ai có thể kể hết về các huyền thoại của Trường Sơn. Chẳng hạn như chiếc bao gùi đầu tiên dùng để gùi hàng vào chiến trường làm bằng vải bạt dài o,7m, rộng 0,4m, cho đến ngày 15/3/1970 (khi được đưa về nhà truyền thống) , chiếc bao này đã cùng nhiều chủ nhân vận chuyển được 50 tấn hàng, 915kg công văn, thư từ đến các chiến trường. Ngày 16/6/1973, hai chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thể và Lê Văn Thái bắn rơi tại chỗ một máy bay F4 chỉ bằng 2 viên đạn AK. Anh hùng Nguyễn Viết Sinh (tiểu đoàn 11, binh trạm 3), gần 6 năm làm nhiệm vụ gùi thồ, vận chuyển hàng vượt Trường Sơn, tổng cộng chặng đường anh đi bằng độ dài vòng quanh trái đất. Chân cứng đá mềm, đường 20 (đường Quyết thắng) mở cuối năm 1966 thì đường giao liên chạy song song cũng được hình thành, các trạm giao liên T6, T7, T8 được lập nối thành hệ thống giao liên hoàn chỉnh. Ở trạm T6, do địa thế hiểm hóc, có một hòn đá bên cạnh suối mà bất cứ ai qua cũng phải đặt chân lên đó. Hàng triệu dấu chân ngày nọ tiếp ngày kia lần lượt giẫm lên làm cho hòn đá lõm hẳn xuống in rõ dấu chân người. Hiện hòn đá đặc biệt này đang được trưng bày tại Bảo tàng đường Hồ Chí Minh.

Chẳng hạn như trong chiến dịch phản công chống cuộc hành quân “Lam Sơn 719” (3/1971), các lực lượng bộ đội Trường Sơn đã bắn rơi 365 máy bay, diệt 8.105 tên, bắt sống 1.160 tên, phá hủy 136 xe tăng, xe cơ giới và 86 khẩu pháo. Trong 8 năm chiến đấu ở Trường Sơn, chỉ riêng trung đoàn 98 công binh đã mở được 2.000km đường ô tô, 500km đường giao liên, khai thông 200km đường sông, bắc 400 cầu, bắn rơi 38 máy bay, diệt 137 biệt kích, thám báo. Chiến tranh bằng mưa không phải là giả định mà là một phát minh kỹ thuật của Mỹ hòng ngăn chặn, đánh phá đường Hồ Chí Minh và lập tức được Lầu Năm Góc áp dụng vào năm đầu của thập kỷ 70. Người ta ném vào trong mây vô số những tinh thể chất muối Iốt bạc để gây nên những trận mưa nhiều hơn mức bình thường. Trong những đám mây đó còn có hóa chất ăn mòn kim loại, xe cộ và các phương tiện bằng sắt khác. Quân đội Mỹ cũng đã sử dụng máy thăm dò điện tử rải xuống khắp vùng rừng núi Trường Sơn giúp máy bay đoán biết sự có mặt của con người. Nhưng oái oăm thay, máy này không có khả năng phân biệt được người thật và nước giải. Chiến sĩ Trường Sơn đã dùng những thùng nước giải đặt rải rác trong rừng, để rồi theo chỉ dẫn của máy thăm dò điện tử, từng tốp máy bay lao xuống cắt bom ở những nơi không có một bóng người…

Chẳng hạn có những đơn vị như đại đội 4, binh trạm 12 từ 1965 đến 1971 đã bắn rơi tới 153 máy bay các loại; có những đơn vị như tiểu đoàn công binh 2, binh trạm 12, từ tháng 10/1970 đến tháng 4/1972 làm nhiệm vụ bảo vệ 300km đường 12 đã bị đánh phá tới trên 5.000 chiếc máy bay, trong đó có trên 500 lần bị đánh bằng B52 với hàng vạn trái bom. Nhưng một tấc không đi, một ly không dời, sống bám đường, chết kiên cường dũng cảm.

(Còn nữa)

Thế Vinh – Xuân Bộ

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm