Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập

01/09/2025 19:15 GMT+7 | Văn hoá

Tròn 80 năm trước, một thảm kịch lớn trong lịch sử đã diễn ra, khi nạn đói năm 1945 cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người Việt Nam. Nhưng, thảm kịch ấy cũng là dịp để thắp sáng nghĩa đồng bào của cả dân tộc - để rồi sau một chuỗi ngày tháng đau thương, lòng yêu nước, khát vọng tự do đã được khơi dậy trong cộng đồng, kết tinh bằng Cách mạng tháng Tám mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Xem chuyên đề 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 TẠI ĐÂY

Câu chuyện ấy đã được kể lại trong Sự thật về nạn đói năm 1945 (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật) - cuốn sách vừa được nhà sử học Nguyễn Quang Ân (nguyên trưởng phòng Tư liệu, Viện Sử học Việt Nam) hoàn thành ở độ tuổi 80, với quá trình hơn 30 năm cùng các cộng sự khảo cứu về đề tài này.

Chương bi thương nhất trong lịch sử dân tộc

"Với quan điểm của tôi, nạn đói năm Ất Dậu chủ yếu đến từ hệ thống sưu thuế và chủ trương bóc lột thóc gạo của Pháp, Nhật. Để phục vụ nhu cầu trong Thế chiến thứ 2, hệ thống ấy được duy trì và đẩy nhanh từ khi Nhật vào Đông Dương năm 1940. Họ chi phối người Pháp, rồi trực tiếp nắm quyền sau đảo chính 9/3/1945" - ông Ân nhận xét - "Trước khi gặp những chính sách phi nhân đạo như "nhổ lúa trồng đay", ngăn sông cấm chợ hay nạn lũ lụt gây mất mùa, khả năng tự cứu đói của người Việt Nam đã bị triệt tiêu dần".

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 1.

Nhà sử học Nguyễn Quang Ân

Trong cuốn sách Sự thật về nạn đói năm 1945, nhiều tư liệu cũng cho thấy: Nạn đói đã manh nha hình thành ở nhiều tỉnh phía Bắc từ một vài năm, trước khi đạt đỉnh vào cuối 1944. Điển hình, tháng 4 năm đó, trên tờ Hải phòng nhật báo số 25, luật sư Vũ Trọng Khánh nhận định: "Đói kém là một bệnh kinh niên ở Bắc và Trung Kỳ. Ngày nay bệnh ấy phát vào thời kỳ cấp hành". Và tác giả đau xót: "Nạn đói hủy hoại dần từng lớp người trong nước ta. Lớp cực nghèo đã chết gần hết".

Nhiều tư liệu khác cũng cho thấy: Cuối 1944, khi nạn đói lan rộng, những đoàn người từ nông thôn bắt đầu kéo lên các đô thị - với hi vọng ban đầu là làm thuê kiếm ăn, rồi sau đó sớm chuyển thành các đoàn hành khất tập thể. Thực tế, hình ảnh những dòng người khất thực xơ xác ấy cũng trở thành biểu trưng của thảm kịch này, và thường được nhắc lại trong 8 thập niên qua.

Nhiều tư liệu được trích dẫn trong cuốn sách cũng giúp người đọc hình dung những bi kịch muôn vẻ quanh nạn đói. Về miếng ăn, báo Tự trị ngày 21/4/1945 mô tả: "Dân ta còn ăn cả trấu; họ cho trấu vào cối, giã nhỏ ra, trộn với cám, với tấm…". Còn tờ Việt Nam tân báo ngày 28/4/1945 có đoạn: "Một con chuột chết là dịp cho cả xóm xúm nhau lại làm cỗ, chia nhau vài miếng. Một ông cụ tự nhiên mà chết dần, theo lời cụ là để dành phần cháo cho lũ cháu mới lên 4, lên 10".

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 2.

Cuốn sách “Sự thật về nạn đói năm 1945”

Về lượng người chết ở làng quê, tạp chí Thanh Nghị ngày 25/5/1945, nhắc tới trường hợp làng Thượng Cầm (phủ Thái Ninh, tỉnh Thái Bình) chết gần một nửa trong số 900 suất đinh và cũng gần một nửa trong khoảng 4.000 phụ lão. Còn làng Bích Khê (phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình) thì "chết đói quá nửa, có nhà 6 người chết cả, không ai chôn, hàng xóm phải đốt nhà cho sập xuống".

Báo Cứu quốc, trong các số tháng 1/1946, kể lại: "Trên đường Thái Bình đi Kiến Xương chỗ nào cũng có trẻ em, cha mẹ chết hết, ngồi kêu khóc ăn xin. Rồi lại xác và xác! Đâu cũng thấy xác người!... Thành phố Hà Nội nồng lên những mùi thịt thối và mùi người chưa chết nhưng cũng không kém mùi thịt chết".

Khá đặc biệt, trong cuốn sách có cả hồi ức của nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang, hội viên Hội Sử học Việt Nam, người mất cả cha mẹ và em ruột trong nạn đói này. Ông kể về thảm cảnh tại quê mình (xã Nam Giang, Nam Ninh, Nam Định) khi ấy: "Làng xóm tôi ngày nào cũng có người chết, nhiều người biết rằng sẽ chết và họ thản nhiên chờ cái chết. Cứ mươi ngày không cơm là chết". Rồi, "qua một cái bãi nhìn thật kinh khủng, nơi tụ tập cả người sống và người chết chưa chôn. Từng nhóm 5 người nhóm 3 người, họ ngồi ngay bên cạnh những xác người vừa chết hoặc chết từ hôm trước".

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 3.

Những hình ảnh này thấy ở mọi nơi trong nạn đói 1945. Ảnh: Võ An Ninh

Nhà sử học này nghẹn ngào cuối bài viết: "Tôi viết mấy dòng nhớ lại chuyện xưa mà nhiều lúc đau xót đến không chịu được, phải bỏ bút đứng lên để cho dịu nỗi đau đớn thảm thương. Nỗi đau thương vẫn nhói lên trong lòng tôi mỗi khi nghe Đài tiếng nói Việt Nam nhắn tin tìm thân nhân lưu lạc năm 1945".

Thực tế, đầu thập niên 1990, nhà sử học Nguyễn Quang Ân đã có nhiều chuyến điền dã, thu thập tư liệu ở nhiều làng quê phía Bắc - nơi từng xảy ra nạn đói năm Ất Dậu. Tại đó, ông được những người dân quê kể lại tường tận những gì từng xảy đến với gia đình mình: "Bà con vừa kể vừa nức nở, còn tôi cũng nghẹn ngào. Những câu chuyện ấy còn thảm khốc hơn rất nhiều so với mọi thứ tôi từng đọc" - ông nhớ lại.

Chỉ vài câu chuyện ông Ân ghi lại ở thôn Quần Mục (xã Đại Hợp, Kiến Thụy, Hải Phòng) hẳn đã quá đủ để người đọc hiểu về những giọt nước mắt ấy. Khi đó 60 tuổi, ông Phạm Gia Mỹ, (khi ấy 60 tuổi), kể về 207 bộ hài cốt người chết đói được tìm thấy sau này: "Hài cốt ở các tư thế nằm sấp, nghiêng, ngồi co quắp không được chôn cất theo nghi thức bình thường. Có không ít những hài cốt vẫn còn cả sợi dây thép dùng để kéo ra bãi".

Rồi ông Ngô Quang Phong (68 tuổi) kể về việc khi xưa dùng xe ngựa, theo lệnh lý dịch chở xác chết mang đi: "Thương nhất là một lần có người còn nói được, tôi ngồi trên xe còn nghe thấy giọng nói yếu ớt từ trong mấy xác chết ở thùng xe rên rỉ: Tôi vẫn còn sống, đừng vứt tôi ra bãi. Nhưng khi xe ra đến bãi tha ma, tôi ngó vào thùng xe thì không thấy ai còn sống nữa…"

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 4.

Nhà sử học Nguyễn Quang Ân (phải) phỏng vấn nhiếp ảnh gia Võ An Ninh năm 1993

Đáng chú ý, cũng như trong cuốn Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - những chứng tích lịch sử từng tham gia biên soạn trước đây, trong công trình lần này, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Ân một lần nữa khẳng định: con số ước lượng 2 triệu người chết đói năm 1945 hoàn toàn không phải sản phẩm của trí tưởng tượng hay của tuyên truyền. Ngược lại, từ nghiên cứu thực chứng, cũng như phân tích dựa trên nguyên tắc của thống kê xã hội học, đây là con số khá chính xác, thậm chí có lẽ ít hơn so với thực tế.

Ông nói: "Hai triệu người chết! Có lẽ đây là một chương bi thương nhất trong lịch sử dân tộc mình".

Từ truyền thống tương thân tương ái tới Cách mạng tháng Tám

"Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại độc lập tự do, mà còn mang lại một giá trị rất thiết thực, rất gần gũi: đó là giúp dân tộc ta vượt qua thảm họa chết đói" - nhà sử học Nguyễn Quang Ân.

Ở một góc nhìn khác, trong quá trình biên soạn tư liệu, học giả Nguyễn Quang Ân cho biết nạn đói năm 1945 cũng là dịp để người đọc hiểu rõ về tinh thần tương thân tương ái, tự cứu giúp nhau trong trong cảnh hoạn nạn của người Việt Nam. Tại đó, ở các đô thị, nhiều cá nhân tình nguyên đứng ra kêu gọi cứu tế, tìm mọi cách hỗ trợ đồng bào gặp nạn. Rồi cùng lúc, giới trí thức liên tục, lên tiếng thúc giục chính phủ Trần Trọng Kim và phía Nhật khẩn cấp có các giải pháp như giảm trưng thu thóc, hạ tô thuế, hoặc thu mua lương thực với giá đủ hợp lý.

Trên báo Trung Bắc Chủ nhật số 251 (1945), luật sư Vũ Đình Hòe khẩn khoản nói về việc tăng giá mua thóc gạo của dân: "Chúng tôi tin rằng một chính phủ lúc nào cũng săn sóc đến đời sống dân chúng thì một khi đã xét rằng nguyện vọng trên là chính đáng, tất nhiên không ngần ngừ mà thay đổi những tiêu tiết thực hành của một chính sách hợp lý". Còn báo Bình Minh ngày 11/4/1945 đăng lời tác giả Hoa Nam: "Bỏ cái lệ bán thóc cho chính phủ, lúc này là cải tử hoàn sinh cho dân quê. Đó là liều thuốc cứu sống một cơn bệnh đang ngắc ngoải, xin nhà đương chức thấu tình mà xét ngay cho".

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 6.

Người dân cố vun quét những hạt gạo rơi vãi trên đường phố Hà Nội. Ảnh: Võ An Ninh

Nhiều đề xuất khác cũng được nhắc tới trong cuốn sách: Vận động chuyển thóc giống từ vùng chưa bị đói xuống các tỉnh đồng bằng; vận chuyển lúa gạo từ Nam Kỳ ra cứu trợ miền Bắc và Trung; thậm chí tính đến phương án đưa một bộ phận dân nghèo ngoài Bắc vào Nam để tạm thời tránh nạn.

Đặc biệt, phong trào cứu tế liên tục lan rộng tại các đô thị. Giữa tháng 3/1945, tại Hà Nội, Tổng hội Cứu tế được thành lập do Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng, Ngô Tử Hạ làm phó hội, đặt trụ sở ở 59 Hàng Quạt (nay là phố Nguyễn Văn Tố). Và rất nhiều hình thức hỗ trợ đa dạng được triển khai từ các nhóm cứu tế này.

Báo Đông Pháp cho biết, đầu 1945, ở Ninh Bình, một nhà từ thiện trong Nam đã may gần 2.000 chiếc áo tặng dân nghèo từ mấy trăm chiếc chăn. Cũng trong dịp Tết âm lịch, các nhóm từ thiện nấu cơm nắm, phát thịt và bánh chưng cho khoảng 5.000 lượt người.

Tại trại Giáp Bát ở Hà Nội, nơi tập trung hơn 5.000 bà con đang kiệt sức vì đói có những nhóm cứu trợ nghèo cố gom sức thết họ "một bữa cơm nắm và bánh ngô" vào chiều 21/5/1945. Hoặc, nghiệp đoàn Kỹ nghệ thủy tinh Bắc Đông Dương cũng tới đây, giúp một bữa cơm cho 3.000 người vào chiều 19/4 - trong khi nhiều người dân khác mang tới ủng hộ chiếu, bị cói, đèn, tông đơ cắt tóc.

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 7.

Khu trại tế bần Giáp Bát, Hà Nội năm 1945.Ảnh: Võ An Ninh

Các hình thức gây quỹ cứu trợ cho những hoạt động này cũng ngày càng phong phú: Đặt quỹ cứu tế trong tiệm ăn; huy động học sinh, sinh viên tổ chức tiệc bánh nước, đấu giá tranh gây quỹ (trong số này, một bức tranh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí được bán với giá 1.400 đồng vào ngày 22/4).  Rồi, tối 9 và 10/5, hai gánh hát Ái Liên và Huỳnh Lan Anh biểu diễn ở rạp Olympia (Hồng Hà) để quyên góp cho Hà Tĩnh - một trong những tỉnh chịu nạn đói thảm khốc nhất.

Đặc biệt, báo Đông Pháp ngày 7/5 ghi nhận: Từ 26/4, "anh em, chị em thường phạm ở Hỏa Lò Hà Nội đã đồng lòng nhịn mỗi tuần một bữa cơm để gửi cho các bạn đói khó ở trại Giáp Bát", và bình luận: "Cảm động thay, ở nhà pha ăn uống là bao, mà còn bớt miệng giúp cho dân nghèo".

"Có thể nói, nạn đói khi ấy chạm tới cực điểm. Nhưng cũng chính trong cơn tuyệt vọng, lòng nhân ái của người Việt lại bừng sáng ở mức cực điểm" - ông Ân nhận xét.

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 8.

Từng đoàn người đi trên phố Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến, Hà Nội) đi về trại tế bần năm 1945.Ảnh: Võ An Ninh

Dù vậy, theo nhà sử học này, các giải pháp khi đó đều gần như không hiệu quả trước nạn đói quá khủng khiếp. Cụ thể, việc đưa gạo từ Nam ra Bắc khó triển khai mạnh vì chính quyền phát xít Nhật lúc đó không mặn mà trong bối cảnh đường sá vận chuyển luôn bị máy bay Đồng Minh tấn công. Còn tại Hà Nội và vài đô thị, bà con hảo tâm cũng không thể xoay xở mãi trong bối cảnh lúa gạo miền Bắc đã gần như cạn kiệt.

Để rồi, chính trong bối cảnh tuyệt vọng ấy, sự hỗ trợ của Việt Minh và Cách mạng đã trở thành chỗ dựa lớn nhất, là vũ khí cuối cùng để người dân tồn tại. Ở đó, người dân Việt Nam được giác ngộ và hiểu rằng giải pháp duy nhất là chống lại chính sách thu thóc, tô thuế hà khắc của phát xít Nhật - và xa hơn, là tự quyết định vận mệnh của mình. Từ những đợt nổi dậy phá kho thóc chia cho dân nghèo, làn sóng cách mạng đã lan rộng trên toàn quốc…

"Ở mức tận cùng của đói khát và đau thương, tôi nghĩ người dân thấm thía hơn bao giờ hết: Thực dân Pháp chỉ đem lại sự bóc lột, chứ không hề có sự khai hóa, nhân đạo nào cho người Việt Nam như họ rêu rao. Và cả phát xít Nhật, với những lời hứa hẹn về "Độc lập Đại Đông Á", "chính quyền của dân", cũng chỉ là bịp bợm khi chính họ gây ra thảm cảnh" - ông Ân nói - "Chỉ có Cách mạng, với mặt trận Việt Minh, là mở ra hi vọng xua tan nạn đói và bảo vệ nhân phẩm con người".

(A80) - Nạn đói năm 1945 - từ thảm kịch bi thương tới khát vọng độc lập - Ảnh 9.

Người dân ngồi chờ phát cơm. Ảnh: Võ An Ninh

"Bởi thế, vượt hơn rất nhiều điều muốn nói qua cuốn sách này, tôi trước tiên luôn muốn khẳng định lại một điều: Cách mạng tháng Tám không chỉ mang lại độc lập tự do, mà còn mang lại một giá trị rất thiết thực, rất gần gũi: đó là giúp dân tộc ta vượt qua thảm họa chết đói" - nhà sử học Nguyễn Quang Ân chia sẻ - "Với tất cả những diễn biến thực tế khi ấy, nếu không có Cách mạng, tôi tin chắc sẽ còn nhiều làng xã bị xóa sổ, bị bỏ hoang vì không còn ai sống, hàng triệu người nữa sẽ bỏ xứ mà đi, số người chết đói chắc chắn sẽ không dừng lại ở 2 triệu người mà còn gấp thế vài lần - một thảm họa diệt vong thật sự".

Thực tế cũng đã chứng minh: Chỉ chưa đầy nửa năm sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nạn đói đã cơ bản được đẩy lùi sau những nỗ lực từ chính quyền của một nước Việt Nam mới, với các giải pháp cơ bản là khẩn trương cứu trợ, nhường cơm sẻ áo và tổ chức tăng gia sản xuất. Kỳ công đó, khiến ngày 2/9/1945 không chỉ đi vào lịch sử như ngày khai sinh một quốc gia hiện đại, mà còn là ngày khép lại một chương bi thương và mở ra hy vọng cho hàng triệu người đang giành lại quyền sống cho mình.

Chi Mai

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm