Diễn ra từ 15- 30/11 Liên hoan Sân khấu Thử nghiệm Quốc tế lần thứ VI năm 2025 tạo nên một "sân chơi" quốc tế, nơi các đơn vị chủ động tìm kiếm những phương thức sáng tạo mới trong bối cảnh hội nhập với quy mô khá lớn: 29 vở diễn và gần 1000 diễn viên.
Như những chia sẻ trước sự kiện, tính chất "thử nghiệm" ở đây không chỉ nằm trong cách dàn dựng ở mọi khâu: sáng tác kịch bản, xử lý diễn xuất, xây dựng không gian trình diễn, ứng dụng âm thanh và ánh sáng. Có nghĩa, đó là những mong muốn mở rộng biên độ sáng tạo bằng mọi hướng tiếp cận đa tầng, không bó hẹp trong một vài "ngẫu hứng" thông thường.
Ban tổ chức tặng hoa, trao cờ lưu niệm cho các đoàn tham gia liên hoan
Tại liên hoan này, sự có mặt của khoảng 10 đoàn nghệ thuật quốc tế đến từ Ba Lan, Hà Lan, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc, Mông Cổ… cho thấy khả năng mở rộng phạm vi giao lưu của sân khấu Việt Nam. Ở chiều ngược lại, kịch mục của các đơn vị trong nước cũng có sự đa dạng đáng kể, trải rộng từ kịch nói (như vở Người đi dép cao su) đến kịch câm, kịch hình thể, nhạc kịch; từ chèo, tuồng, cải lương (Hồn thơ ngọc) đến xiếc (Nghêu sò ốc hến), chèo (Đào Liễu), rối (Giấc mơ chú ếch xanh).
Thậm chí, một số vở được cho là vượt ra ngoài khung phân loại quen thuộc, khi nghệ sĩ mạnh dạn đưa vào đó nhiều chất liệu nghệ thuật và thử nghiệm những hình thức biểu đạt không thể "xếp gọn" trong một bộ môn cụ thể. Phần nào, chính sự khó gọi tên ấy phản ánh nhu cầu sáng tạo của sân khấu - trong bối cảnh cạnh tranh với các loại hình giải trí đương đại - để tìm kiếm những lối đi mới.
Ban tổ chức tặng hoa cho Ban giám khảo tại liên hoan
Đáng chú ý, so với năm kỳ trước, Liên hoan Quốc tế Sân khấu Thử nghiệm lần thứ VI có bước chuyển quan trọng khi lần đầu tiên được tổ chức tại bốn địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình và TP.HCM. Bên cạnh tính linh hoạt nhằm giải bài toán kinh phí, cách tổ chức này còn cho thấy hướng dịch chuyển đáng chú ý, khi sân khấu tìm đến những nhóm công chúng khác nhau, thay vì thu hẹp mình trong khuôn khổ một cuộc thi tập trung. Bởi, trong bối cảnh khán giả đang có sự phân hóa mạnh mẽ trước các loại hình giải trí khác nhau, việc chủ động mở rộng không gian tiếp cận là một lựa chọn cần thiết cho sân khấu.
Các đại biểu tham dự liên hoan
Những con số về quy mô tổ chức, số lượng vở diễn, số đơn vị tham gia hiện có, đều là tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, điều sân khấu cần hơn là khả năng sáng tạo và kết nối với đời sống của các vở diễn, khi mà nghệ thuật sân khấu đang phải cạnh tranh gay gắn với các sản phẩm giải trí hiện đại.
Trong những ngày đầu tiên tổ chức tại TP.HCM, bằng tín hiệu đầy sức sống, các đơn vị nghệ thuật tại đây đã mở ra một bức tranh đa diện, với nỗ lực tìm kiếm những mã giao tiếp mới để chạm đến khán giả thời đại.
Mở màn đầy ấn tượng tại sân khấu 5B là Ảo quan - vở nhạc kịch đương đại của đạo diễn Chinh Ba. Tác phẩm chọn cách tiếp cận trực diện vào bi kịch của người trẻ: căn bệnh trầm cảm và sự đứt gãy trong kết nối giữa các thế hệ.
Cảnh trong vở “Ảo quan”
Điểm táo bạo của Ảo quan là sự tối giản thoại đến mức tối đa, thay vào đó là ngôn ngữ hình thể, múa và hiệu ứng thị giác, âm nhạc để kể chuyện. Sân khấu được thiết kế đóng kín rồi mở ra những không gian ngầm bất ngờ, kết hợp cùng màn hình xoay và công nghệ quay hình trực tiếp, tạo nên một không gian ngột ngạt, phản ánh áp lực của thế giới ảo. Thông điệp chữa lành về tình yêu thương được chuyển tải qua diễn xuất nặng ký của NSND Mỹ Uyên và dàn diễn viên trẻ, tạo nên một trải nghiệm cảm xúc mạnh mẽ.
Cảnh trong vở “Hồn thơ ngọc”
Ở mảng sân khấu truyền thống, di sản của cố soạn giả Lê Duy Hạnh được tái sinh rực rỡ qua vở cải lương Hồn thơ ngọc. Đây là một cuộc thử nghiệm đầy tham vọng của đạo diễn Lê Nguyên Đạt và ê-kíp khi chuyển thể tác phẩm từ kịch nói sang cải lương. Phiên bản này mang diện mạo của một bản anh hùng ca, với sân khấu gần như không có cảnh trí, chỉ sử dụng màn hình LED và dàn đồng ca hơn 50 diễn viên múa tạo nên những hiệu ứng thị giác và thính giác hoành tráng. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cải lương, hát bội và âm nhạc hiện đại đã biến vở thành một "bữa tiệc" nghệ thuật đa chiều.
Cảnh trong vở “Hồn thơ ngọc”
Trong khi đó, NSƯT Tuyết Thu lại đến với liên hoan năm nay bằng một thử thách hoàn toàn mới trong vở Sơn hà của sân khấu Sen Việt. Được chuyển thể từ kịch bản cũng của Lê Duy Hạnh Sơn hà đặt Tuyết Thu vào vai diễn độc thoại nặng ký: Thái hậu Dương Vân Nga. Suốt 60 phút trên sân khấu, cô phải độc diễn để khắc họa cuộc giằng xé tâm can khốc liệt của người đàn bà đứng giữa hai triều đại. Vở diễn kết hợp diễn xuất tâm lý với kỹ thuật trình chiếu nghệ thuật thị giác, biến không gian sân khấu tối giản trở nên biến ảo, làm nền cho nỗi cô đơn tột cùng của nhân vật lịch sử.
Một điểm sáng thú vị về sự giao thoa văn hóa là vở Nguyệt hạ của sân khấu Hồng Vân. Đạo diễn NSND Hồng Vân đã táo bạo đưa linh hồn của Romeo và Juliet "nhập vào" một cặp đôi người Việt đang trốn chạy hủ tục phong kiến. Vở diễn sử dụng song ngữ Anh - Việt một cách khéo léo, không gượng ép, phục vụ tốt cho cả khán giả trong nước và quốc tế. Các diễn viên như Ốc Thanh Vân, Bùi Công Danh… không chỉ diễn, mà còn phải hát và múa điêu luyện bằng cả hai ngôn ngữ.
Mang màu sắc đen tối và ám ảnh nhất là Cơn hồng thủy của Hội Sân khấu TP.HCM. Tác phẩm vẽ nên viễn cảnh ngày tận thế, nơi Trái đất chỉ còn là một đảo rác và con người bị lột trần mọi mặt nạ xã hội. Ba nhân vật - một bác sĩ vô cảm, một cô giáo có quá khứ u tối và một tử tù - buộc phải đối diện với tòa án lương tâm. Đạo diễn Nguyễn Thanh Thương đã mạnh dạn bước qua vùng an toàn, sử dụng sự tối giản trong dàn cảnh để nhường chỗ cho những cảm xúc trần trụi, gửi gắm thông điệp rằng sự sụp đổ của đạo đức đáng sợ hơn mọi thiên tai.
Sau TP.HCM, tại Hà Nội, một sự trùng hợp thú vị diễn ra: hai vở hiếm hoi biểu diễn tại đây đều là chèo: Đào Liễu của Nhà hát Chèo Hà Nội và Câu chuyện tình yêu của Nhà hát Chèo Quân đội. Thực tế, hai vở diễn này cũng lập tức gây chú ý cho khán giả, khi chèo vốn là loại hình truyền thống được định hình suốt nhiều thế kỷ qua, với những niêm luật khá nghiêm ngặt về làn điệu, cấu trúc, trình thức biểu diễn.
Từ góc nhìn ấy, Đào Liễu cho thấy nỗ lực đáng kể của ê-kíp Nhà hát Chèo Hà Nội - đơn vị vốn được đánh giá là khá năng động và chịu tìm tòi trong nghệ thuật chèo. Câu chuyện kịch của tác giả Bùi Vũ Minh không quá phức tạp: Bà Liễu là nghệ sĩ chèo đã đứng tuổi, luôn mang theo ký ức về một đời gắn bó với chiếu chèo, với những vai diễn từng nuôi dưỡng tâm hồn người xem. Về nghỉ hưu, bà đối diện với sự lạnh nhạt của người thân - và rộng hơn là của xã hội - khi nhắc tới chèo và nghệ thuật truyền thống. Nỗi cô đơn, hụt hẫng khiến bà liên tục đặt câu hỏi về khoảng cách giữa thế giới của những gì mình tin yêu và thế giới thực tại, nơi những giá trị ấy bị coi là xa lạ.
Đạo diễn NSND Trần Hoài Thu đã chọn cho Đào Liễu không gian tối giản khi dàn dựng. Gần như 70 phút của vở diễn ra với một cảnh trí duy nhất, nơi sân khấu gần như trống trơn, chỉ có phông hậu và bốn tấm lụa mang họa tiết truyền thống. Không gian ấy buộc diễn xuất trở thành trung tâm, và 70 phút của vở gần như chỉ gồm những cuộc đối thoại và độc thoại nội tâm của bà Liễu (NSƯT Minh Nhan).
Cảnh trong vở “Đào liễu”
Dụng công nhất trong những màn độc thoại ấy là lớp diễn bà Liễu lần lượt gặp những nhân vật kinh điển của chèo: Xúy Vân, Thị Màu, Thị Kính, Châu Long. Ở đó, mỗi nhân vật mang theo một cá tính, một số phận đặc trưng của chèo truyền thống, và cũng là mảnh ký ức giúp người xem cảm nhận nỗi cô đơn và giấc mơ níu giữ giá trị truyền thống của nghệ sĩ đã dành cả cuộc đời cho chèo.
Ở vở diễn còn lại, Câu chuyện tình yêu của Nhà hát Chèo Quân đội chọn một thử nghiệm khác, hướng về cấu trúc và âm nhạc. Vở diễn đặt ra câu chuyện về tình yêu, danh dự và trách nhiệm - những vấn đề tưởng quen thuộc nhưng luôn có tính thời sự trong đời sống. Và thay vì chọn lối kể theo mạch thời gian tuyến tính, tác phẩm lại có nhiều nhân vật cùng tham gia dẫn chuyện, tạo nhịp điệu linh hoạt và một cấu trúc mở - điều khá thú vị so với những đặc trưng vốn có của chèo. Ngoài ra, phần âm nhạc được xử lý theo hướng mới: bên cạnh chất liệu ngũ âm quen thuộc, ê-kíp đưa vào hòa âm đa thanh, phức điệu phương Tây, sử dụng bè kép và thậm chí cả trống điện tử.
Bước sang giai đoạn 2 của Liên hoan kể từ ngày 20/11, một lượng lớn các tác phẩm được công diễn tại Nhà hát Phạm Thị Trân (Ninh Bình). Và, đáng chú trong số đó là việc vở kịch Ngày mai trời lại sáng - một tác phẩm nổi tiếng của cố tác giả Đinh Xuân Hòa - trở lại sau hơn sáu thập niên, trong phiên bản mới do NSND Trần Lực và sân khấu LucTeam thực hiện.
Ngày mai trời lại sáng được viết năm 1957, công diễn lần đầu năm 1959, và gây tiếng vang bởi nội dung sâu sắc, cấu trúc mới lạ và cách tiếp cận hiện thực tâm lý táo bạo.
Cảnh trong vở “Cơn hồng thủy”
Theo chia sẻ, khi quyết định "tìm lại" vở kịch này, NSND Trần Lực muốn khẳng định tính vĩnh cửu của nghệ thuật sân khấu. Ông cho rằng, dù được viết hơn nửa thế kỷ trước, Ngày mai trời lại sáng vẫn rất hiện đại - khi nó chạm đến những vấn đề muôn thuở của con người như tình yêu, hôn nhân, sự tha hóa và bi kịch của những giá trị tinh thần bị nghiền nát trong cơn lốc vật chất. Bên cạnh đó, cấu trúc kịch bản đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện tư duy tiên tiến, vượt thời đại, khác hẳn với mô hình "tam duy nhất" quen thuộc trong sân khấu cổ điển.
Điểm nổi bật nhất trong dàn dựng của NSND Trần Lực là sự hòa quyện giữa hiện thực tâm lý và thủ pháp ước lệ - biểu hiện. Nếu ở các vở trước như Quẫn hay Bạch đàn liễu, sân khấu LucTeam thiên về hình thể và biểu trưng, thì với Ngày mai trời lại sáng, đạo diễn "cố ý tiết chế ngón nghề ước lệ" để tập trung vào nội tâm nhân vật. Các diễn viên của vở được yêu cầu diễn tả chân thực, khai thác sâu đời sống tinh thần của nhân vật, đặc biệt là các diễn viên trẻ Cao Xuân Hải Long (vai Lộc) và Nguyễn Khánh Linh (vai Vân).
Cảnh trong vở “Sơn hà”
Ở góc độ khác, trong khi diễn xuất đi theo hướng tả thực, không gian sân khấu lại được thiết kế tối giản và tượng trưng. Một chiếc bục gỗ duy nhất giữa sân khấu - được ghép từ những tấm ván thô mộc - trở thành trung tâm biểu tượng. Nó là mái nhà, là dòng thời gian, là thế giới nội tâm của nhân vật, nơi những ước mơ và bi kịch cùng tồn tại.
Đáng chú ý, dù mang tính thử nghiệm cao, Ngày mai trời lại sáng vẫn hướng đến khán giả đại chúng. Kịch bản được đánh giá "cực kỳ đời thường", với lời thoại giản dị, gần gũi, giúp người xem dễ dàng đồng cảm. Những vấn đề triết lý được chuyển tải bằng câu chuyện cụ thể, có kịch tính và cảm xúc mạnh. Sự lôi cuốn của vở kịch nằm ở nhịp kể nhanh, chặt chẽ, đầy bất ngờ, khiến người xem theo dõi không rời mắt.
Cảnh trong vở “Sơn hà”
Vở diễn đánh dấu một bước ngoặt của LucTeam - từ việc nhấn mạnh hình thức ước lệ chuyển sang khai thác chiều sâu tâm lý con người. Đây không chỉ là thử nghiệm về phong cách mà còn là minh chứng cho triết lý sân khấu cởi mở của đạo diễn Trần Lực - nơi mọi phương pháp, dù cổ điển hay hiện đại, đều chỉ là công cụ để kể một câu chuyện hay, chạm tới cảm xúc người xem.
Một trong những vở diễn gây ấn tượng khác tại Liên hoan là Người đi dép cao su (Nhà hát kịch Việt Nam) được dàn dựng dựa trên kịch bản của Kateb Yacine, nhà văn Algeria (1929 - 1989) từng sống nhiều năm tại Pháp. Ông không chỉ viết kịch mà còn trực tiếp tổ chức các đoàn biểu diễn cho công nhân, nông dân và sinh viên ở Algeria và nhiều nước châu Âu.
Cảnh trong vở "Người đi dép cao su"
Năm 1967, trong chuyến thăm Việt Nam, những điều mắt thấy tai nghe về cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thôi thúc Kateb Yacine tìm hiểu sâu hơn về lịch sử Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tình cảm và sự kính trọng dành cho dân tộc Việt Nam đã giúp ông hình thành cảm hứng sáng tác vở kịch thơ Người đi dép cao su. Tác phẩm khắc họa hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh bình dị mà vĩ đại, đồng thời tôn vinh tinh thần quật khởi của một dân tộc đứng lên giành độc lập.
Cảnh trong vở "Người đi dép cao su"
Vở kịch xuất hiện vào đầu thập niên 1970, nhưng chưa từng được dàn dựng tại Việt Nam. Để rồi, từ nguyên tác gồm 304 trang với hơn 1.800 câu thoại và hàng trăm nhân vật, bản tiếng Việt do Giáo sư Phùng Văn Tửu dịch, sau đó được đạo diễn Lê Mạnh Hùng biên tập và dàn dựng một phần kịch bản cho Nhà hát kịch Việt Nam. Vở diễn tập trung khắc họa hành trình cứu nước của chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, cho đến khi trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cùng Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc đấu tranh lớn nhất của dân tộc.
Ê-kíp sáng tạo đã lựa chọn phong cách dàn dựng mới mẻ, kết hợp kịch cổ điển châu Âu với nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam mang tính ước lệ. Trong 60 phút, vở diễn dẫn dắt khán giả đi qua những trang sử vàng, nổi bật là hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh gần gũi mà cao cả. Kết cấu chặt chẽ, âm nhạc gợi đúng từng thời kỳ lịch sử và đặc biệt là màn hóa thân của nghệ sĩ Minh Hải đã để lại nhiều xúc động.
Đặc biệt, đạo diễn của vở đã có cách tiếp cận táo bạo, phá vỡ cấu trúc quen thuộc, xử lý thời gian và không gian linh hoạt để tái hiện hiệu quả những biến chuyển lớn của lịch sử Việt Nam.
Trong khi đó, ở các vở diễn quốc tế, nhìn tổng thể, Tỳ bà ký của Đoàn Việt kịch Thụy An (Chiết Giang, Trung Quốc) và Vũ trụ của Nhà hát Nghiên cứu sáng tạo sân khấu (Mông Cổ ) được đánh giá khá cao cả về chiều sâu sáng tạo và kỹ thuật biểu diễn.
Cảnh trong vở Vũ trụ
Cụ thể, với Vũ trụ, tác phẩm xây dựng hệ thống các thực thể mang tính biểu tượng như lửa, nước, cây, sắt, gió, bụi… Đây là hướng tiếp cận hiếm gặp trên sân khấu, khi kịch bản không đi theo tuyến nhân vật hoặc xung đột, mà mở ra một thế giới riêng, nơi mâu thuẫn bắt nguồn từ chính quy luật của tạo hóa. Và dù không trực tiếp nói về con người, câu hỏi mở ra lại liên quan vấn đề thời sự nóng nhất của nhân loại như biến đổi khí hậu, chiến tranh, cạn kiệt tài nguyên, ranh giới mong manh giữa kiến tạo và hủy diệt…
Cảnh trong vở “Tỳ bà ký”
Độc đáo nhất, cách kể chuyện của Vũ trụ chủ yếu dựa vào ngôn ngữ hình thể. Gần như không có lời thoại, cơ thể diễn viên trở thành phương tiện chính để phác họa một vũ trụ rộng lớn bằng những chuyển động mang tính biểu tượng. Đây là "điểm lạ" của vở: khán giả không được dẫn dắt bằng câu chữ, mà bằng nhịp thở, tư thế, độ căng và sự lan tỏa của từng động tác. Lối kể ấy không nhằm mô tả mà gợi mở, buộc người xem tham gia vào quá trình tạo nghĩa bằng chính trí tưởng tượng của mình.
Trong khi đó, ở Tỳ bà ký của Đoàn Việt kịch Thụy An (Chiết Giang, Trung Quốc), toàn bộ nhân vật đều được thể hiện bởi các nữ nghệ sĩ, với cách vào vai rất linh hoạt, vừa giữ được kỹ thuật cổ điển, vừa mở rộng khả năng biểu đạt để khắc họa nhân vật nam mà không sa vào cường điệu hoặc mô phỏng bề ngoài.
Cảnh trong vở “Tỳ bà ký”
Trên nền diễn xuất ấy, bi kịch của cặp phu thê Thái Bá Giai - Triệu Nương vì thế được gợi lên bằng sự tiết chế và chiều sâu nội tâm, chứ không bằng các cao trào của cảm xúc hoặc hành động. Đặc biệt, không gian vở diễn tinh gọn: ánh sáng trầm, phục trang cổ điển nhưng tiết giảm, âm nhạc dân gian được xử lý đủ mềm để gợi không khí cổ xưa mà vẫn giữ nhịp đương đại. Tất cả tạo nên một ngôn ngữ biểu đạt thanh nhã, tinh tế nhưng đầy chiều sâu.
Càng sang giai đoạn về cuối, Liên hoan càng hấp dẫn không chỉ bởi các vở diễn mà còn từ những cuộc hội thảo chuyên môn. Như chia sẻ, điểm sáng của các vở diễn tại mùa liên hoan năm nay nằm ở sự thay đổi quyết liệt trong tư duy sáng tạo: chuyển từ lối kể chuyện "tả thực" sang ngôn ngữ biểu tượng và đa phương tiện. Tại đó, các đạo diễn đã mạnh dạn phá bỏ "bức tường thứ tư", biến sân khấu thành không gian mở của công nghệ và hiệu ứng thị giác.
Cảnh trong vở “Mê đê”
Không chỉ kịch nói, nhiều thể loại sân khấu khác cũng tạo ấn tượng mạnh về sự chuyển mình này. Đơn cử, với cải lương, Mê-đê của Nhà hát Sân khấu truyền thống quốc gia Việt Nam là một ví dụ tiêu biểu cho lối tối giản giàu tính tạo hình. Trên nền một bi kịch kinh điển của thế giới, đạo diễn - NSND Lê Chức đã sử dụng những dải lụa nhiều màu để biến hóa thành không gian, gắn với những chuyển động mang tính biểu tượng theo trạng thái tâm lý nhân vật. Đặc biệt, dàn đồng ca - vốn là đặc trưng của bi kịch cổ điển - được sử dụng như những bóng hình của Mê-đê: lúc nâng đỡ, lúc đối thoại, đồng thời phản chiếu nỗi đau của người phụ nữ bị phản bội đến mức phải gieo thảm kịch lên chính con mình. Cách làm này cho thấy sự linh hoạt và khả năng tiếp nhận mọi chất liệu nghệ thuật khác của cải lương, nhưng vẫn đủ đi sâu vào bi kịch nội tâm của nhân vật chính.
Cảnh trong vở “Mê đê”
Hoặc Nghêu Sò Ốc Hến - Không muốn cũng phải cười (Liên đoàn Xiếc Việt Nam) là một trong những thử nghiệm táo bạo nhất tại liên hoan này. Trong vở, NSND Tống Toàn Thắng đã chọn cách đưa chất châm biếm trong câu chuyện dân gian Việt Nam vào ngôn ngữ xiếc đương đại, nơi những kỹ thuật bay, đu, lộn, tung hứng và giữ thăng bằng trở thành phương tiện kể chuyện.
Còn ở sân khấu rối, Tấm Cám của Nhà hát Múa rối Thăng Long lại chú trọng sử dụng chất liệu tre truyền thống như một hệ thống ngôn ngữ đồng nhất với diễn xuất của các quân rối, tạo nên một thế giới cổ tích vừa mộc mạc, vừa tạo ấn tượng thị giác mạnh…
Cũng phải nói thêm: Nhìn sâu vào nội lực của các tác phẩm Việt Nam, ta không khỏi giật mình trước một thực tế: Sự khan hiếm trầm trọng của các kịch bản thử/thể nghiệm mới. Trong 6 vở diễn đại diện cho TP.HCM, có đến 3 tác phẩm (Hồn thơ ngọc, Sơn hà, Nguyệt hạ) dựa trên kịch bản của cố soạn giả Lê Duy Hạnh. Điều này một mặt tôn vinh di sản đồ sộ và tư duy đi trước thời đại của ông, nhưng mặt khác lại cho "khoảng trắng" đáng báo động của đội ngũ biên kịch trẻ.
Cảnh trong vở rối “Tấm Cám”
Trong khi đó, thị trường giải trí hiện nay dường như đang cuốn các cây bút trẻ vào những đề tài bề nổi, thiếu vắng những tác giả mặn mà hoặc đủ tầm vóc để dấn thân vào con đường kịch bản thử nghiệm - thể loại đòi hỏi chiều sâu tư tưởng và tư duy phá cách. Chưa nói, việc chuyển thể các kịch bản kịch nói thông thường sang hình thức thử nghiệm, nếu làm không khéo léo, rất dễ tạo ra sự chênh phô, gượng ép trong dàn dựng.
Khoảng trống tiếp theo là điều kiện cơ sở vật chất. Một số đơn vị xã hội hóa tại TP.HCM không sở hữu điểm diễn cố định hoặc thường xuyên. Việc phải thuê mướn sân khấu khiến thời gian làm quen với không gian, âm thanh, ánh sáng bị bó hẹp. Có những ý tưởng của đạo diễn rất táo bạo nhưng bị kìm hãm bởi không gian diễn không tương thích: vở cần độ sâu hun hút lại phải diễn trên sân khấu "hộp diêm"; vở cần sự tinh tế, ấm cúng lại lọt thỏm giữa không gian to quá khổ. Sự thiếu hụt thời gian tổng duyệt kỹ thuật (technical rehearsal) khiến nhiều hiệu ứng chưa đạt đến độ "chín", nghệ sĩ đôi khi phải vừa diễn vừa... dò đường để "bơi" trong một không gian còn lạ lẫm…
Cảnh trong vở rối “Tấm Cám”
Cuối cùng, bài toán nan giải nhất vẫn là khoảng cách giữa "sân khấu thử nghiệm" và "khán giả đại chúng". Thử nghiệm, về bản chất, là cuộc chơi của những tìm tòi về hình thức và thủ pháp. Các đạo diễn thường chọn lối tối giản thoại, tận dụng ngôn ngữ hình thể và các biểu tượng trừu tượng, triết lý. Tuy nhiên, sự tối giản này đôi khi trở thành con dao hai lưỡi. Việc tiết giảm lời thoại và biểu cảm gương mặt - hai công cụ giao tiếp hữu hiệu nhất của con người - vô hình trung dựng lên một bức tường. Khán giả có thể "hiểu" thông điệp qua các động tác múa, qua ánh sáng, nhưng để "cảm" và rung động thì không dễ. Sự cân bằng giữa cái "lạ" của thể nghiệm và cái "tình" của nghệ thuật là ranh giới rất mong manh. Nếu quá sa đà vào hình thức, tác phẩm dễ trở nên khô cứng, đánh đố người xem.
Hơn nữa, với quy luật thị trường khắc nghiệt, các vở diễn thử nghiệm dù được đầu tư công phu nhưng số suất diễn lại rất khiêm tốn, khiến cơ hội để công chúng tiếp cận và thẩm thấu dòng kịch này càng trở nên xa vời.
Tối 30/11, Lễ bế mạc Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm lần VI, năm 2025 đã diễn ra tại Nhà hát Phạm Thị Trân (Ninh Bình). Theo TS Nguyễn Đăng Chương, Chủ tịch Hội đồng giám khảo Liên hoan, việc góp mặt của 10 thể loại sân khấu lần này đã tạo nên một bức tranh đa màu sắc, chứa đựng khát vọng sáng tạo của người nghệ sĩ bằng các phương pháp và hình thức thử nghiệm khác nhau, bằng những câu chuyện kịch, những nhân vật kịch mang đậm các giá trị nhân văn.
Trao Huy chương Vàng cho các tác phẩm tại liên hoan
Phát biểu tại lễ bế mạc, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Phan Tâm cho biết, Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm lần thứ VI đã chứng minh, nghệ thuật thử nghiệm không đơn giản là đổi mới hình thức, mà là dũng khí vượt qua giới hạn, là khát vọng đi tìm những chân trời biểu đạt mới của con người. Các nghệ sĩ Việt Nam và quốc tế đã cùng nhau khám phá các ngôn ngữ sân khấu mới, kết hợp công nghệ với biểu đạt truyền thống, thổi sức sống hiện đại vào các hình thức nghệ thuật lâu đời.
Trao Huy chương Bạc cho các tác phẩm
Như thế, Liên hoan Quốc tế Sân khấu thử nghiệm lần VI đã khép lại. Dù vẫn còn đó những trăn trở về kịch bản hoặc nỗi lo cơm áo, nhưng không thể phủ nhận nỗ lực phi thường của các đơn vị nghệ thuật. Những giải thưởng hoặc sự ghi nhận tại Ninh Bình rất đáng quý, nhưng giá trị cốt lõi thì nằm ở việc ngọn lửa nghề vẫn cháy mãnh liệt trong bối cảnh đầy khó khăn.
Các diễn viên giành Huy chương Vàng tại liên hoan
Như lời chia sẻ của NSND Giang Mạnh Hà (Phó Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam): "Không phải tìm tòi nào cũng thành công ngay... nhưng từ thất bại sẽ rút ra những kinh nghiệm quý giá". Và đó, chính là sứ mệnh của hai chữ "thử nghiệm".
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất