23/12/2025 10:39 GMT+7 | Văn hoá
Việc UNESCO thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (1726 - 2026) đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị khoa học, văn hóa, giáo dục của Việt Nam nói chung, với cá nhân danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn nói riêng; qua đó góp phần quảng bá, giới thiệu mảnh đất, con người Hưng Yên đến với thế giới.

Các đại biểu trong Đoàn công tác tỉnh Hưng Yên tham dự kỳ họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 43. Ảnh: TTXVN phát
Trước đó, vào ngày 31/10/2025, Kỳ họp lần thứ 43 Đại hội đồng Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) diễn ra tại thành phố Samarkand, Cộng hoà Uzbekistan, đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn. Đây là kết quả tốt đẹp của quá trình nỗ lực phối hợp chặt chẽ trong thời gian qua giữa tỉnh Hưng Yên với Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban quốc gia UNESCO, các chuyên gia, nhà khoa học của quốc tế và Việt Nam.
Nhiều hoạt động tưởng nhớ ý nghĩa
Năm 2026, kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên, quê hương của ông, đã cam kết phối hợp chặt chẽ với UNESCO và các đối tác quốc tế để tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, bổ ích tưởng nhớ đóng góp của nhà bác học xuất chúng của Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Văn Chiến (Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh uỷ, Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Hưng Yên), việc UNESCO thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị khoa học, văn hóa, giáo dục của Việt Nam, với cá nhân Danh nhân Lê Quý Đôn; góp phần quảng bá, giới thiệu lịch sử văn hoá của Việt Nam, của tỉnh Hưng Yên. Đồng thời thực hiện chủ trương phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa, con người Hưng Yên hướng đến chân - thiện - mỹ; lấy con người làm trung tâm trong chính sách phát triển theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030.

Đoàn công tác của tỉnh Hưng Yên giới thiệu về danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn và mảnh đất, con người Hưng Yên tại Uzbeskistan hôm 2/11/2025. Ảnh: Báo Hưng Yên
Mới đây, vào ngày 2/11, Đoàn công tác của tỉnh Hưng Yên tại Uzbeskistan do ông Nguyễn Văn Chiến (Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy) làm Trưởng đoàn cùng các thành viên đã có buổi làm việc với Liên minh các thành phố kết nghĩa thuộc Ủy ban về quan hệ liên dân tộc và kiều bào ở nước ngoài của Uzbekistan, Hội hữu nghị Uzbekistan - Việt Nam, Trường Đại học quốc gia Phương Đông Tashkent, các doanh nghiệp, cộng đồng kiều bào người Hưng Yên, sinh viên Việt Nam tại Thủ đô Tashkent, Uzbekistan.
Tại buổi làm việc, ông Nguyễn Văn Chiến, đã thay mặt đoàn công tác chia sẻ sự kiện UNESCO đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm ngày sinh danh nhân văn hoá Lê Quý Đôn; đồng thời giới thiệu những thành tựu, tiềm năng, thế mạnh về kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch và con người tỉnh Hưng Yên; những lĩnh vực có khả năng hợp tác giữa tỉnh Hưng Yên với các địa phương của Uzbekistan.

Ông Nguyễn Văn Chiến, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Hưng Yên (phải) trao tặng cuốn sách cho ông Abidov Zakir Khalilovich, Chủ tịch Liên minh các thành phố kết nghĩa thuộc Ủy ban về quan hệ liên dân tộc và kiều bào ở nước ngoài của Uzbekistan trong chuyến làm việc tại Uzbeskistan hôm 2/11/2025. Ảnh: Báo Hưng Yên
Trước đó, vào tháng 8/2025, tỉnh Hưng Yên đã xây dựng phương án tu bổ, tôn tạo cấp bách di tích lịch sử cấp quốc gia khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn (xã Lê Quý Đôn) nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông.
Dự án do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng số 2 tỉnh làm chủ đầu tư với tổng vốn hơn 41 tỉ đồng từ ngân sách Nhà nước, thực hiện giai đoạn 2025 - 2026. Quy mô gồm tu bổ, tôn tạo Khu Từ đường (1.215 m²) với các hạng mục như cổng vào, nghi môn, bái đường, trung đường, hậu cung, nhà bia, nhà khách, bếp, lầu hóa sớ, nhà vệ sinh, hạ tầng kỹ thuật và các hạng mục phụ trợ khác; tu bổ Khu lăng mộ Lê Trọng Thứ (180 m²) cùng cải tạo tổng thể sân vườn, hạ tầng kỹ thuật.
Theo ông Phạm Văn Nghiêm (Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên), việc tu bổ di tích là nhiệm vụ cấp bách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị lịch sử, đáp ứng điều kiện tổ chức lễ vinh danh Danh nhân Lê Quý Đôn nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh (1726 - 2026) như cam kết với UNESCO; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống, thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế - xã hội địa phương.
Có thể khẳng định, một số hoạt động bước đầu từ công tác đối ngoại văn hóa, kết nối quốc tế, đến việc chuẩn bị bài bản các điều kiện vật chất, không gian tưởng niệm cho lễ kỷ niệm 300 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã cho thấy nỗ lực chủ động, nghiêm túc và tầm nhìn dài hạn của tỉnh Hưng Yên trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc.
Không chỉ thực hiện cam kết với UNESCO, những việc làm này còn khẳng định quyết tâm của địa phương trong việc lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần, lấy con người làm trung tâm cho phát triển bền vững, đồng thời đưa hình ảnh mảnh đất, con người Hưng Yên hội nhập sâu hơn vào dòng chảy văn hóa - tri thức của khu vực và thế giới.
Di sản vô giá để lại cho hậu thế
Danh nhân Lê Quý Đôn sinh ngày 2/8/1726, mất ngày 11/6/1784, tại làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên). Lúc nhỏ tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Ông là con cả của tiến sĩ Lê Phú Thứ (sau đổi thành Lê Trọng Thứ) - người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông là con gái một tiến sĩ từng trải qua nhiều chức quan.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hưng Yên Phạm Văn Nghiêm phát biểu tại cuộc họp triển khai Dự án tu bổ, tôn tạo cấp bách Di tích lịch sử cấp quốc gia Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn. Ảnh: Báo Hưng Yên
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. Năm 2 tuổi, ông đã đọc được chữ "hữu" và "vô"; 5 tuổi đọc được nhiều bài trong Kinh Thi; năm 10 tuổi, ông học sử, mỗi ngày thuộc được 80 đến 90 chương và học Kinh Dịch về phần Cương hình và Đồ thuyết; năm 14 tuổi ông đã đọc hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, Sử truyện và Chư tử. Đặc biệt, ông có thể làm 10 bài phú mà không phải nghĩ và không cần viết nháp.
Năm 14 tuổi, Lê Quý Ðôn đã theo cha lên kinh đô Thăng Long theo học thầy là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Nhờ trí tuệ uyên thâm mà 17 tuổi Lê Quý Đôn đi thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi ông đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn (do khoa thi này không lấy Trạng nguyên).
Sau khi đã đỗ đạt, Lê Quý Đôn được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê-Trịnh, như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toản tu quốc sử quán (năm 1754); Hàn lâm viện thị giảng (năm 1757); Đốc đồng xứ Kinh Bắc (năm 1764); Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1767); Tán lý quân vụ (năm 1768); Thị phó đô ngự sử, Công bộ hữu thị lang (năm 1769); Bồi tụng (năm 1773); Lại bộ tả thị lang kiêm Tổng tài quốc sử quán (năm 1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (năm 1776); Hiệp trấn Nghệ An (năm 1783); Công bộ thượng thư (năm 1784)...
Lê Quý Đôn nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, có tài năng và kiến thức uyên bác. Cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn đã có nhiều sự kiện ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp trước tác, văn chương của ông. Những năm 1756, 1772, ông được cử đi điều tra tình hình thống khổ của nhân dân cùng tệ tham nhũng, ăn hối lộ của quan lại… ở Sơn Nam, Lạng Sơn.
Trong thời gian đi sứ Trung Quốc (1760 - 1762), Lê Quý Đôn gặp gỡ các sứ thần, tiếp xúc với nhiều trí thức nổi tiếng, bàn luận với họ những vấn đề Sử học, Triết học... Học vấn sâu rộng của ông đã được các học giả rất khâm phục. Ông có dịp đọc nhiều sách, trong đó có sách của phương Tây nói về địa lý thế giới, về ngôn ngữhọc, thủy văn học...
Nhờ quá trình đi nhiều, thấy nhiều, nghe nhiều, biết nhiều việc đời nên kiến thức của Lê Quý Đôn rất phong phú. Sinh thời, nhà bác học Lê Quý Đôn được mệnh danh là "túi khôn của thời đại". Ông được người đời ca tụng: "Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn", có nghĩa là mọi người trong thiên hạ ai không hiểu việc gì, muốn hỏi thì gặp Bảng nhãn Lê Quý Đôn. Câu nói đó đã nói lên tầm vóc của nhà bác học thiên tài của Đại Việt thời phong kiến. Ham hiểu biết, thích sưu tầm lại có một trí nhớ siêu việt… đó chính là những yếu tố giúp ông trở thành danh nhân đất Việt. Ông đã có những cống hiến trên nhiều lĩnh vực, như: triết học, sử học, nông học, thiên văn học… Mỗi cống hiến của ông lại mang đến giá trị lịch sử, văn hóa, giáo dục cũng như nhân văn cho mọi thế hệ.
Với tài trí thông minh và kiến thức uyên bác, Lê Quý Đôn đã để lại cho hậu thế khoảng 40 bộ sách bao quát hầu hết các tri thức đương thời, như: lịch sử, địa lý, thi ca, nhiều tác phẩm khảo cứu, diễn nghĩa, chú giải, bàn giảng các kinh điển, cổ thư và nhiều tác phẩm thơ Nôm. Các tác phẩm nổi tiếng của ông được coi như bách khoa toàn thư ở nhiều lĩnh vực. Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu: Về văn học có bộ sưu tầm "Toàn Việt thi lục"; tập thơ "Quế đường thi tập" rất nổi tiếng". Về sử học có "Đại Việt thông sử", "Phủ biên tạp lục", "Kiến văn tạp lục", "Bắc sử thông lục". Về triết học có "Thư kinh diễn nghĩa", "Dịch kinh phu thuyết", "Xuân thu lược luận", "Quân thư Khảo biện". Về kinh tế và nông học có bộ "Vân đài loại ngữ" rất đồ sộ…
Trong số những bộ sách đồ sộ Lê Quý Ðôn để lại cho hậu thế, "Vân đài loại ngữ", được coi là bộ bách khoa từ điển của Việt Nam. Tác phẩm gồm 9 quyển, tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học... sắp xếp theo thứ tự: Vũ trụ luận, địa lý, điển lệ, chế độ, văn nghệ, ngôn ngữ, văn tự, sản vật tự nhiên, xã hội... thể hiện rõ tư duy hệ thống và bề sâu học thuật của ông. Điểm nổi bật của "Vân Đài loại ngữ" không chỉ nằm ở khối lượng tư liệu phong phú mà còn ở phương pháp biên soạn khoa học, lý luận chặt chẽ, giúp độc giả hiểu được cách người xưa nhìn nhận và vận dụng tri thức. Lê Quý Đôn cũng thể hiện tư duy phản biện và khả năng tổng hợp kiến thức từ nhiều nguồn cổ điển từ kinh điển Nho giáo cho đến sử ký, thiên văn, nông học, y học dân gian. "Vân đài loại ngữ" là bộ sách đạt tới trình độ phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa khá cao, đánh dấu một bước tiến bộ vượt bậc đối với nền khoa học Việt Nam thời phong kiến. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng đối với các nhà nghiên cứu Hán Nôm, văn hóa học và lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Khu tưởng niệm nhà bác học Lê Quý Đôn tại thôn Ðồng Phú, xã Ðộc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, nay là xã Lê Quý Đôn, tỉnh Hưng Yên
Còn lĩnh vực sử học, phải nhắc đến bộ sách "Đại Việt thông sử", còn gọi "Lê triều thông sử", với 30 quyển ghi chép về hơn 100 năm của triều nhà Lê, trong đó chứa đựng nhiều tài liệu mới mà các bộ sử khác không có. Ngoài giá trị to lớn về kho tư liệu, "Đại Việt thông sử" còn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về khoa học lịch sử phương pháp nghiên cứu sử học khoa học đặc thù của Lê Quý Ðôn. Khi viết "Ðại Việt thông sử", ông đã sớm tổng kết: "Phép làm sử là phải nhặt đủ, không bỏ sót để cho người ta sau khi mở sách ra xem rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không tận mắt thấy tai nghe mà rõ ràng như chính mình được thấy".
Về văn học, tiêu biểu là "Toàn Việt thi lục", gồm 6 quyển là công trình biên soạn lớn nhất của Lê Quý Ðôn, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực (1509-1516). Ông cũng để lại nhiều công trình tiêu biểu, như "Hoàng Việt văn hải", "Quế Đường thi văn tập". Ngoài ra, ông còn quan tâm đến ngôn ngữ học, dân tộc học, nhân học, địa lý học...
Có thể nói, công tích và sự nghiệp khoa học của nhà bác học Lê Quý Đôn đã và đang là những di sản vô giá truyền lại cho các thế hệ tiếp nối, được nhà nước và nhân dân suy tôn qua nhiều hình thức lưu danh và tưởng niệm. Cả nước hiện có tới 40 ngôi trường mang tên danh nhân Lê Quý Đôn.
Di sản của Lê Quý Đôn không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi quốc gia mà còn vươn xa tầm quốc tế. Các tác phẩm quý giá của ông phần lớn viết bằng chữ Hán đã trở thành tài liệu tham khảo trực tiếp cho nhiều nghiên cứu trong khu vực Đông Á. Những công trình này, cùng với các bài báo khoa học, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa và trước tác của Lê Quý Đôn ra toàn cầu.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất