(TT&VH Online) - Hugo Sanchez là cầu thủ vĩ đại nhất của bóng đá Mexico và khu vực CONCACAF. Dù từng là tiền đạo xuất sắc nhất của ĐT Mexico và hiện là HLV trưởng của đội bóng xứ sở xương rồng song Hugo được biết đến chủ yếu bởi anh từng là trụ cột của Real Madrid vĩ đại. Nổi tiếng với các biệt danh Pentapichichi và Hugol nhờ vô số bàn thắng trong sự nghiệp, anh chính là niềm tự hào của bóng đá xứ sở xương rồng.

Kỳ 1: Cầu thủ ngôi sao
Ngôi sao vùng CONCACAF
Hugo Sanchez Marquez sinh ra ở thủ đô Mexico City. Anh ký hợp đồng làm cầu thủ trẻ của UNAM Pumas năm 1976 khi 18 tuổi. Đây là đội bóng chuyên nghiệp đại diện cho trường Đại học tổng hợp Quốc gia Mexico, nơi anh cũng đã kịp hoàn thành tấm bằng chuyên ngành nha khoa trong khi vẫn tiếp tục theo đuổi sự nghiệp thi đấu bóng đá.
Năm 1977, UNAM có được danh hiệu VĐ Mexico đầu tiên của họ. Hai năm sau đó, Hugo đã trở thành vua phá lưới của giải VĐQG với 20 bàn. Vũ khí của Hugo là khả năng dứt điểm chính xác và mạnh mẽ cùng với thể lực tuyệt vời, sự dẻo dai và sức dướn hiếm có đằng sau thể hình khiêm tốn đối với một trung phong (cao 1,75 m).
Năm 1979, UNAM đã đồng ý thỏa thuận trao đổi cầu thủ trong những khoảng thời gian không có giải với đội bóng Mỹ San Diego Sockers của giải VĐ Bắc Mỹ (NASL). NASL chơi trong mùa hè trong khi giải VĐQG Mexico lại chơi vào mùa thu, đông và xuân. UNAM đã cho Sockers mượn Hugo trong cả hai mùa hè 1979 và 1980, nơi anh đã trở thành tiền đạo chủ chốt của đội bóng Sockers với hiệu suất ghi bàn gần đạt tới mức 1 bàn/trận.
Bóng đá ở Mỹ thời đó là gì. Những anh chàng lực lưỡng với cái đầu cạo trọc và thái độ không thân thiện. Họ án ngữ ở trung tâm hàng phòng ngự và nếu tiền đạo đối phương đủ sức để mon men lại gần khung thành thì họ sẵn sàng tì đè, thậm chí xô đẩy bằng những cánh tay rắn như thép. Đôi khi họ cũng thực sự đá bóng nhưng thường thì đá vào chân đối phương. Nên nhớ Hugo cao có 1,75 m tính cả mái tóc xoăn bù xù và nặng 75 kg, đủ để coi là béo nhưng chẳng là gì so với các "đấu sĩ bóng đá" ở Mỹ. Ở đó, Hugo đã biết cách để đối chọi hiệu quả với những hậu vệ vào loại "hung thần" nhất. Ngay trong trận đầu chơi cho Sockers - trận giao hữu với Dynamo Moskva của Liên Xô - Hugo đã ghi 4 bàn trong vỏn vẹn có 14 phút trong hiệp 1 để Sockers thắng 5-2.
Hugo ngay lập tức đã trở thành một đối tượng để các CĐV bóng đá ngưỡng mộ. Cả thảy, anh đã chơi trong 32 trận của mùa giải thường của NASL và ghi 26 bàn. NASL hồi đó và MLS bây giờ vẫn có thể thức thi đấu được chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 gồm mùa giải thường sau đó một số đội có thành tích tốt nhất được vào giai đoạn 2 gồm các loạt trận play-off tranh chức VĐ. Trong 13 trận play-off, Hugo đã có thêm 13 bàn và 5 đường chuyền quyết định. Hugo đã giúp Sockers vào tới bán kết trong cả hai năm đó nhưng không thể giành được chức VĐ NASL.
5 mùa bóng của Hugo với UNAM cũng là những năm tháng vàng son của đội bóng này. Trong mùa bóng cuối cùng với đội, Hugo một lần nữa trở thành vua phá lưới và chia sẻ danh hiệu với người đá cặp Cabinho, còn UNAM của họ giành chức VĐQG lần thứ hai và cả Champions Cup CONCACAF (Cúp C1 của khu vực CONCACAF).
Rực sáng ở Tây Ban Nha
Sau 5 mùa bóng thành công ở giải VĐ Mexico với 99 bàn thắng, Hugo thu hút được sự quan tâm của một số đội bóng TBN. Anh đã ký hợp đồng chơi cho Atletico Madrid năm 1981 và đã khước từ một đề nghị chơi cho Arsenal, đội bóng Anh lừng danh.
Phải mất một thời gian để Hugo tìm được chỗ đứng ở La Liga nhưng đến mùa giải 1984-85 anh đã ghi bàn thường xuyên còn đội bóng này giành được Cúp Nhà vua (Cúp QG TBN), kết thúc với vị trí thứ hai ở giải VĐ TBN và giành Siêu Cúp TBN. Năm đó, Hugo cũng giành danh hiệu Pichichi (Vua phá lưới) đầu tiên và trở thành chân sút cự phách nhất ở Liga.
Ở đỉnh cao của sự nghiệp, anh ký hợp đồng chơi cho CLB vĩ đại nhất thế giới Real Madrid năm 1985 và trở thành đồng đội của các cầu thủ như Camacho, Butragueno, Gordillo, Valdano và Michel. Đội bóng này đã giành 5 chức VĐQG liên tiếp (từ 1986 tới 1990), Cúp Nhà vua năm 1989 và Cúp UEFA năm 1986.
Một pha lộn santo ăn mừng bàn thắng quen thuộc
Trong 5 năm đó, Hugo giành được 4 danh hiệu Pichichi liên tiếp, ghi 207 bàn trong 283 trận. Anh ghi được ít nhất 27 bàn trong mỗi mùa giải kể từ 1986 đến 1990. Trong đó 38 bàn ở mùa giải 1989-90 đã giúp Hugo san bằng kỷ lục ghi bàn của Telmo Zarra lập năm 1951 và giành luôn danh hiệu Chiếc giày vàng châu Âu cho cầu thủ ghi bàn xuất sắc nhất ở các giải VĐQG châu Âu. Anh cũng ghi được 23 bàn trong 45 trận ở Cúp châu Âu.
Năm 1990, Hugo trở lại quê nhà Mexico chơi một mùa bóng trước khi lại lên đường tha hương một lần nữa để chơi cho một loạt CLB ở TBN, Áo và Mỹ. Tiền đạo số 1 của bóng đá CONCACAF kết thúc sự nghiệp chơi bóng cho CLB Atletico Celaya ở Mexico cùng với Butragueno và Michel, các đồng nghiệp cũ của anh ở Real Madrid.
Có thể nói, sự nghiệp cầu thủ của Hugo gắn bó nhiều nhất với bóng đá TBN, đặc biệt là với Real Madrid. Đây là nơi anh đã tạo dựng được tên tuổi của một cầu thủ lớn. 12 mùa bóng chơi ở giải VĐ TBN, Hugo trở thành cầu thủ ghi bàn xuất sắc thứ hai trong lịch sử giải này. Tổng cộng, anh đã giành danh hiệu Pichichi 5 lần, trong đó có 4 lần liên tiếp, thành tích chỉ đứng sau Telmo Zarra (6 lần), và ghi 234 bàn ở giải VĐ TBN, chỉ kém Zarra 17 bàn. (còn nữa)
Hugo Sanchez
- Tên đầy đủ: Hugo Sanchez Marquez
- Sinh ngày 11/7/1958 tại Mexico City, Mexico
- Cao 1,75 m
- Biệt danh: Pentapichichi, Hugol, Nino de Oro
- Tình trạng gia đình: hai đời vợ và 4 con: hai con gái (sinh đôi) với vợ hiện tại, một con trai và một con gái với vợ cũ.
Thành tích ghi bàn ở giải VĐQG
CLB (mùa giải) Trận/Bàn
UNAM Pumas (1976-81) 200/99
San Diego Sockers(1979-80) 32/29
Atletico Madrid (1981-85) 111/54
Real Madrid (1985-92) 283/253
America (1992-93) 29/2
Rayo Vallecano (1993-94) 29/16
Atlante (1994-95) 32/13
Linz (1995-96) 18/3
Dallas Burn (1996) 23/6
Atletico Celaya (1996-98) 12/2
Tổng cộng 769/477
* Sự nghiệp cầu thủ
- Vị trí thi đấu: Tiền đạo
- Các CLB: UNAM Pumas (1976-81), San Diego Sockers (1979-80, cho mượn trong mùa hè), Atletico Madrid (1981-85), Real Madrid (1985-92), Club America (1992-93), Rayo Vallecano (1993-94), Atlante (1994-95), Linz (1995-96), Dallas Burn (1996), Atletico Celaya (1996-98)
- Với ĐTQG Mexico (1977-1998): chơi 60 trận/29 bàn; dự Olympic 1976 và các kỳ World Cup 1978, 1986 và 1994 (chơi 8 trận, ghi 1 bàn trận gặp Bỉ năm 1986)
- Thành tích: 2 lần VĐ Mexico (1977, 1981); 5 lần VĐ TBN (1986, 1987, 1988, 1989, 1990); 2 Cúp Nhà vua (1985, 1989); 4 Siêu Cúp TBN (1985, 1988, 1989, 1990); 2 Champions Cup CONCACAF (1980, 1992); 1 Cúp Liên Mỹ (Copa Interamericana, 1981); 1 Cúp UEFA (1986); 1 Cúp vàng CONCACAF (1977); 1 Chiếc giày vàng châu Âu (1990); 5 lần Vua phá lưới giải VĐ TBN (1985, 1986, 1987, 1988, 1990); 1 lần Vua phá lưới giải VĐ Mexico (1978); 2 lần Cầu thủ nước ngoài xuất sắc nhất giải VĐ TBN (1987, 1990); VĐV thể thao xuất sắc nhất Mexico thế kỷ 20; Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất Mexico thế kỷ 20 theo IFFHS; Cầu thủ xuất sắc nhất khu vực CONCACAF (Bắc, Trung Mỹ và vùng biển Caribbe) thế kỷ 20 và xuất sắc thứ 26 của thế giới do IFFHS bầu chọn năm 1999; Cầu thủ Mexico duy nhất có tên trong danh sách 125 cầu thủ xuất sắc nhất còn sống do Pele chọn tháng 3/2004; “Đại sứ Thế giới” của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF)
* Sự nghiệp HLV
- Đội: UNAM Pumas (2000-05), Necaxa (2006), ĐT Mexico (từ 2006)
- Thành tích: 2 lần VĐ Mexico (Clausura 2004 và Apertura 2004), 1 Cúp Santiago Bernabeu | |
Tú Uyên (tổng hợp)