(Thethaovanhoa.vn) -
Nhìn những tượng Kim cương, Hộ pháp trong các đền chùa châu Á thì đều thấy có nét tương tự về giáp trụ, chứng tỏ có một sự gần gũi nào đó về quan niệm bảo vệ cơ thể, phô trương sức mạnh và thẩm mỹ.1. Trong lịch sử quân sự, vùng Đông Á, người ta thấy rõ áo giáp cho quân đội của các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam có kết cấu và hình thức tương đối giống nhau.
Tuy nhiên, áo giáp Trung Hoa có vẻ phong phú và tinh tế hơn ba nước kia. Áo giáp của ba nước còn lại trọng về thực dụng hơn thẩm mỹ, đôi khi rất thô và mang tính phô trương bạo lực, chẳng hạn như áo giáp Nhật Bản.
Áo giáp thực ra có một tiến trình lịch sử lâu dài cùng với các chiến trận và các triều đại, đến mức lịch sử loài người vẫn được viết bằng lịch sử chiến trận và sự thay đổi của các triều đại.
Vào thời trước Công nguyên, trong khoảng 200 năm, người ta thấy những áo giáp khá đơn giản và thô, chủ yếu có hai loại giáp sắt và giáp da, được làm bằng từng miếng nhỏ khâu móc lại, che phần thân chính, tay và chân có thể để trần, hoặc có giáp ngắn ở bả vai, và có mũ sắt đội khít vào đầu, hình thù như quả dưa hấu có chóp. Loại mũ quả dưa này thực ra phổ biến khắp cả thế giới, cho đến chiếc mũ bảo hiểm ngày nay vẫn có hình dáng tương tự, chứng tỏ với hình thù ấy nó có khả năng bảo vệ đầu tốt.
Tượng Kim cương chùa Long Đọi, thế kỷ 11. Ảnh Nguyễn Anh Tuấn. Các pho tượng Kim cương mặc áo giáp theo phong cách áo giáp thời Đường. |
2. Giáp che thân được làm từ nhiều chất liệu: chất liệu mây đan như bài trước chúng ta đã khảo sát, chất liệu gỗ, da và sắt.
Gỗ có thể dùng làm mộc cứng, che chắn, chứ không tiện cho việc làm áo giáp che thân, bởi nó cứng, không mềm mại vận động theo cơ thể, nên không phổ biến và cũng khó chịu được lực đâm.
Chất liệu sắt cứng, người ta có thể gò, đúc một khối giáp thân, khi mặc lồng vào người như áo trấn thủ, tuy nhiên khá cứng nhắc, khó vận động. Ở châu Âu, những kỵ sỵ Trung cổ mặc giáp sắt cứng toàn thân và cả ngựa cưỡi cũng mang giáp, rất nặng nề, tính ra toàn bộ khối sắt này đến 200 kg, khi lên ngựa kỵ sỹ phải có người giúp, và nếu để ngã ngựa coi như cầm chắc cái chết. Do vậy người ta cải tiến, hoặc chia nhỏ các miếng sắt rồi ghép lại với nhau, tùy theo khớp người và nơi cần vận động, nơi cần che chắn nguyên khối, hoặc ghép miếng sắt với da, phối hợp cái cứng của sắt, cái mềm dai của da, hoặc chuyển thành dạng các móc xích và móc vòng, thành áo giáp sắt nhưng mặc thì mềm như đeo những chuỗi lo xo kết với nhau.
Trên thực tế áo giáp da (da trâu là chính) là phổ biến và chịu sát thương tốt nhất, cũng như cho phép cơ động hơn cả. Tuy nhiên nếu mặc một bộ giáp da kiểu thời Tống, đầy đủ từ chân đến đầu, tay cầm một thanh kiếm, thì toàn thân luôn mang theo 12 kg không nhẹ nhàng gì, nhất là vận động trên chiến trường. Giáp da chịu lực đâm chém và tên bắn đều tốt, một cung thủ phải rất khỏe mới có thể bắn xuyên được giáp da.
Giáp da cũng phổ biến trong thời phong kiến ở Việt Nam. Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có nói về việc tập bắn thường niên của binh lính nhà Lê Trịnh, lúc đó đã có dùng súng hỏa mai thô sơ và cung nỏ, nếu binh sỹ nào mà bắn trượt đến ba lần thì phải phạt tiền hoặc nộp hai bộ da trâu, cho quân đội làm áo giáp. Con trâu bấy giờ là đầu cơ nghiệp của nhà nông, hàng chục gia đình mới chung nhau mua được một con, nên đó là án phạt rất nặng.
Trong các bức ảnh cuối thể kỷ 19, đầu 20, do người Pháp chụp đội cấm binh nhà Nguyễn, cũng mặc áo giáp da dạng đơn giản.
Kỵ binh ngự lâm quân, triều đình Huế. Bưu ảnh cổ do người Pháp chụp đầu thế kỷ 20. Tư liệu NXB Thế giới. Các kỵ binh cầm giáo và mặc áo giáp.
|
3. Áo giáp da ở phương Đông đến thời Đường Tống (tức là khoảng từ thế kỷ 7 – 12) là hoàn chỉnh. Nó bao gồm mũ trụ, thường bằng sắt. Bộ giáp thân có hai miếng che bắp tay và bắp đùi, miếng che bụng và bộ hạ, ngoài thân có thể thắt thêm đai da, tức là thân được che hai lượt da, cổ tay và cổ chân đều có bao da rời. Hình thức của loại áo giáp này có thể thấy tương tự như các pho tượng Kim cương, Hộ pháp ở đình đền chùa, ngoài ra còn một chiếc áo bào khoác vai cũng có tác dụng bảo vệ cơ thể, gây cản trở đối phương.
Khi mặc loại áo giáp này, người ta phải có người giúp. Thoạt tiên mặc vào trong một bộ quần áo lụa mỏng, cái áo gọi là thủy y. Sau đó đến một chiếc áo dài bằng sợi hay dạ hai vạt. Hai bộ này nhằm giảm lực cọ xát của giáp trực tiếp vào cơ thể, vì người ta không thể mặc áo giáp sát da thịt mà không bị xây sát. Người mặc lồng từ phía sau lưng vào hai tay, rồi buộc dây chặt phía sau lưng cho giáp ôm gọn lấy người.
Áo bào được khoác vào vai và lồng hai dây qua nách rồi buộc ra sau lưng, để khóa khớp vai cho chặt. Bao tay, bao chân và thắt lưng đeo sau cùng.
4. Bên cạnh đó, tay chiến binh chuyên nghiệp này còn phải mang một cây giáo, một thanh gươm dài, một thanh gươm ngắn giắt vào cánh tay, hoặc thắt lưng, một cây cung có bao và một bao tên. Anh ta không chỉ phải bảo vệ mình, mà còn phải bảo vệ cho con ngựa đang cưỡi.
Nom chiến binh như vậy khá ngoạn mục và đáng kinh hãi, nhưng thực ra rất cồng kềnh, dễ bị tổn thương và nếu phải chiến đấu trong thời tiết nóng thì quả là địa ngục.
Phan Cẩm Thượng
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần