11/11/2025 08:32 GMT+7 | Văn hoá
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, Việt Nam không chỉ đối diện thách thức về công nghệ, mà còn đứng trước yêu cầu cấp thiết định hình "bản sắc văn hóa số" - nền tảng tinh thần giúp xã hội số phát triển theo hướng nhân văn và bền vững.
Đây là 1 trong những nội dung đáng chú ý được các chuyên gia đề cập tại Hội thảo quốc tế Diễn đàn Văn hóa và Giáo dục mùa Thu lần thứ hai (AFCE 2025): Phát triển văn hóa và giáo dục trong kỷ nguyên số. Hội thảo do Trường Đại học Thủ đô Hà Nội tổ chức vừa qua tại Hà Nội.
Kiến tạo "văn minh tinh thần số"
Theo PGS-TS Phạm Lan Oanh (Phó Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam), trong kỷ nguyên chuyển đổi số toàn cầu, không gian mạng đã trở thành một môi trường văn hóa mới, nơi diễn ra quá trình giao thoa, tái cấu trúc và chuyển hóa các giá trị tinh thần của nhân loại. Đối với Việt Nam, chuyển đổi số quốc gia không chỉ là tiến trình công nghệ hóa, mà còn là hành trình tái thiết hệ giá trị văn hóa - đạo đức - thẩm mỹ trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.

Các đại biểu tham dự AFCE 2025. Ảnh: Diệu Dương
Trong bối cảnh này, PGS-TS Phạm Lan Oanh nhấn mạnh đến sự hình thành và phát triển của văn minh tinh thần số Việt Nam: "Nếu trước đây, văn minh tinh thần được kiến tạo trong các không gian vật chất - tôn giáo, giáo dục, nghệ thuật, cộng đồng - thì nay, những "không gian tinh thần" ấy dịch chuyển lên môi trường số, hình thành "địa tầng tinh thần mới" của xã hội đương đại".
Bà khẳng định: "Việc kiến tạo văn minh tinh thần số trở thành yêu cầu kép: Vừa là động lực phát triển bền vững, vừa là "lá chắn tinh thần" bảo vệ bản sắc dân tộc trước sự lan tỏa của các mô hình giá trị toàn cầu".
Theo chuyên gia này, trong 2 thập niên đầu thế kỷ 21, không gian mạng đã trở thành trường sống tinh thần mới của xã hội Việt Nam, nơi giá trị văn hóa, đạo đức và sáng tạo được tái cấu trúc bằng ngôn ngữ kỹ thuật số.
Một dấu ấn nổi bật của văn minh tinh thần số là hình thành chuẩn mực đạo đức số mang tính cộng đồng. Chiến dịch Tuổi trẻ Thủ đô ứng xử văn minh trên không gian mạng (2021 - 2024) do Thành đoàn Hà Nội phát động thu hút hơn 15.000 đoàn viên, với các hoạt động như Bình luận có văn hóa, Lan tỏa điều tử tế, Bảo vệ hình ảnh Việt Nam trên mạng. Phong trào này góp phần chuẩn hóa hành vi giao tiếp số, cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 33 - NQ/TW (2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Một thành tựu tiêu biểu khác là khả năng tái sinh di sản bằng công nghệ. Các dự án như Bản đồ di sản Hà Nội, Không gian ảo Đà Nẵng - thành phố của tương lai, Số hóa hát ca trù, quan họ, hay Hệ tri thức Việt số hóa đã đưa di sản ra khỏi bảo tàng vật lý, trở thành nguồn học liệu mở trong đời sống tinh thần cộng đồng. Tại đó, công nghệ 3D, VR, AR giúp di sản trở nên tương tác, gần gũi và hấp dẫn hơn với thế hệ trẻ. Những dự án này cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57 - NQ/TW (2024) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Song song với những chuyển biến tích cực, không gian mạng Việt Nam cũng bộc lộ nhiều nghịch lý của quá trình "số hóa tinh thần", khi đạo đức, ý thức công dân và năng lực thẩm mỹ chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ. Mặt trái của tự do số cũng bộc lộ rõ: Nạn tin giả, ngôn ngữ thù ghét, thương mại hóa biểu tượng văn hóa và lệch chuẩn đạo đức... đặt ra thách thức lớn về an ninh tinh thần.

Chiêm ngưỡng di sản Phật giáo thời Lý qua công nghệ 3D mapping tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Từ thực tế, PGS-TS Phạm Lan Oanh đề xuất cần thiết lập Chỉ số văn minh tinh thần số quốc gia (Digital Moral-Spiritual Civilization Index - DMSCI) như công cụ đo lường và điều tiết giữa tiến bộ kỹ thuật - tiến bộ tinh thần. DMSCI gồm 3 nhóm tiêu chí: Năng lực công dân số; đạo đức và an ninh tinh thần; di sản và sáng tạo văn hóa số.
DMSCI không chỉ là công cụ đo lường mà còn là cơ chế tự phản chiếu văn hóa, giúp định hướng xã hội số theo giá trị nhân văn và bản sắc Việt Nam, chuyển trọng tâm từ "chuyển đổi công nghệ" sang "chuyển đổi tinh thần". Việc đánh giá định kỳ DMSCI sẽ giúp điều chỉnh chính sách, giáo dục và truyền thông, bảo đảm cân bằng giữa tiến bộ kỹ thuật và phát triển tinh thần.
Định hướng phát triển bền vững từ chính sách
Song song với những chuyển biến tích cực, không gian mạng Việt Nam cũng bộc lộ nhiều nghịch lý của quá trình "số hóa tinh thần", khi đạo đức, ý thức công dân và năng lực thẩm mỹ chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ.
Thực tiễn tại Việt Nam cho thấy, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa đang có những bước tiến quan trọng, song hiệu quả vẫn còn phụ thuộc lớn vào năng lực điều phối của Nhà nước, khả năng phối hợp liên ngành và mức độ tham gia của xã hội.
Trong đó, những thay đổi nhanh chóng của công nghệ số đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu lại cách thức xây dựng và thực thi chính sách văn hóa, đồng thời cần đổi mới toàn diện đối với chu trình chính sách phát triển văn hóa ở Việt Nam, nhằm đảm bảo rằng hệ thống chính sách không chỉ theo kịp sự vận động của thực tiễn mà còn định hướng sự phát triển bền vững trong tương lai.
Theo TS Trần Quốc Việt (Trường Đại học Thủ đô Hà Nội), kỷ nguyên số tác động sâu sắc đến toàn bộ chu trình chính sách phát triển văn hóa ở Việt Nam. Từ khâu thiết lập chương trình làm việc, thảo luận, xây dựng đến chấp nhận, cung cấp phương tiện, thực thi và đánh giá, công nghệ số vừa mở ra nhiều cơ hội mới, vừa đặt ra những thách thức chưa từng có.
Đơn cử, ở giai đoạn xây dựng chính sách, TS Việt cho biết kỷ nguyên số tạo ra những thuận lợi mới. Cụ thể, các cơ quan quản lý có thể khai thác dấu vết số từ nền tảng mạng xã hội, nghe nhìn trực tuyến, công cụ tìm kiếm để nhận diện xu hướng văn hóa, nhu cầu công chúng, biến chúng thành dữ liệu đầu vào cho giai đoạn xây dựng chính sách.
Đồng thời, hệ thống cơ sở dữ liệu số trong các lĩnh vực văn hóa (biểu diễn nghệ thuật, lễ hội, di sản, gia đình, thể thao) cũng cung cấp thông tin cập nhật, giúp các nhà làm chính sách lựa chọn giải pháp sát thực tế hơn cho vấn đề đang xây dựng. Ngoài ra, các công cụ phân tích dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo cho phép cơ quan quản lý mô phỏng tác động dự kiến của chính sách, từ đó lựa chọn phương án tối ưu trong quá trình xây dựng.

Trải nghiệm công nghệ thực tế ảo tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Tuy nhiên, kỷ nguyên số cũng tạo ra không ít khó khăn cho giai đoạn xây dựng chính sách, nổi bật là nguy cơ lệ thuộc quá nhiều vào dữ liệu số, thiên lệch dữ liệu và bỏ qua chiều sâu văn hóa truyền thống. Nếu quá lệ thuộc và chỉ dựa vào các chỉ báo trực tuyến (lượt xem, lượt tương tác), chính sách có thể nghiêng về các xu hướng mang tính giải trí - thương mại, trong khi bỏ qua những giá trị văn hóa truyền thống ít "viral" hơn, chưa có nhiều hiện diện trên không gian mạng. Ví dụ, ở Việt Nam, nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, cải lương ít được tìm kiếm và chia sẻ trên nền tảng số, dẫn đến nguy cơ bị "vô hình hóa" trong chính sách nếu chỉ dựa trên "Big Data".
Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ quản lý văn hóa trong việc khai thác, xử lý và phân tích dữ liệu số còn hạn chế. Hiện nhiều cán bộ vẫn chủ yếu dựa vào báo cáo truyền thống và ít có kỹ năng sử dụng công cụ phân tích dữ liệu lớn hay trí tuệ nhân tạo. Thiếu nhân lực biết "đọc" dữ liệu văn hóa, mô hình hóa tác động hoặc tích hợp AI khiến chính sách dễ nghiêng về báo cáo định tính.
PGS-TS Phạm Lan Oanh đề xuất cần thiết lập Chỉ số văn minh tinh thần số quốc gia (DMSCI) như công cụ đo lường và điều tiết giữa tiến bộ kỹ thuật - tiến bộ tinh thần.
Ngoài ra, cần lưu ý nguy cơ mất an ninh dữ liệu văn hóa ngay từ khâu thiết kế chính sách. Dữ liệu số về di sản, hiện vật, hồ sơ nghệ sĩ, bản quyền, giao dịch nội dung... có giá trị cao. Nếu không lồng ghép an ninh dữ liệu từ đầu, có thể dẫn đến rò rỉ, xuyên tạc dữ liệu, làm tổn hại di sản và niềm tin cộng đồng.
Từ phân tích, TS Việt đề xuất 4 "hàm ý" chính sách để Việt Nam nâng cao hiệu quả quản lý văn hóa trong kỷ nguyên số: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chính sách văn hóa số; phát triển năng lực số cho đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách; củng cố hạ tầng dữ liệu số và chia sẻ liên ngành; bố trí ngân sách bền vững và cơ chế hỗ trợ các địa phương khó khăn.
Cũng theo chuyên gia này, kỷ nguyên số không chỉ là thách thức mà còn là động lực thúc đẩy đổi mới chính sách phát triển văn hóa ở Việt Nam. Một hệ thống chính sách được thiết kế và thực thi theo tư duy số hóa sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong kỷ nguyên mới.
Diễn đàn học thuật quốc tế uy tín
AFCE 2025 là sự kiện tiếp nối thành công của Diễn đàn Văn hóa và Giáo dục mùa Thu lần thứ Nhất (2024) với chủ đề "70 năm văn hóa, giáo dục Thủ đô - Hành trình kiến tạo và phát triển" do Trường Đại học Thủ đô Hà Nội tổ chức.
AFCE 2025 được đánh giá là diễn đàn học thuật quốc tế uy tín, góp phần xây dựng cầu nối giữa nghiên cứu, quản lý và thực tiễn, đồng thời mở ra tầm nhìn chiến lược cho việc phát triển văn hóa và giáo dục Việt Nam trong thời đại số.
Năm nay, hội thảo nhận được 222 bài viết chất lượng từ các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, giảng viên, giáo viên, học viên, sinh viên trong nước và quốc tế; có 153 bài được chọn in kỷ yếu, tập trung vào 3 nhóm nội dung: giáo dục sáng tạo và phát triển bền vững trong kỷ nguyên số; bản sắc văn hóa trong kỷ nguyên số; công nghệ số trong bảo tồn, phát triển văn hóa và giáo dục.
Theo Ban tổ chức, các bài viết tại AFCE 2025 làm nổi bật bức tranh tổng thể về cách văn hóa, giáo dục và công nghệ - đặc biệt là trí tuệ nhân tạo - có thể đồng thời bảo tồn, làm phong phú bản sắc văn hóa và thúc đẩy phương thức giảng dạy, học tập sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu và thách thức của xã hội số hóa hiện đại.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất