Có một Đỗ Kim Cuông "ba trong một"

27/10/2025 07:30 GMT+7 | Văn hoá

Tôi gặp nhà văn Đỗ Kim Cuông lần đầu vào năm 2000, tại cuộc làm việc của nhạc sĩ Trần Hoàn, Phó Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, với các cán bộ chuyên viên Vụ Văn hóa và Vụ Văn nghệ. 

Lúc đó, hai vụ chưa sáp nhập thành Vụ Văn hóa - Văn nghệ như bây giờ. Anh Cuông khi đó là Phó Vụ trưởng Vụ Văn nghệ ở tòa nhà kiến trúc Pháp 49 Phan Đình Phùng. Còn tôi là chuyên viên Vụ Văn hóa ở phố Nguyễn Cảnh Chân. Phòng nhạc sĩ Trần Hoàn ở bên cạnh Vụ Văn hóa – nơi nhạc sĩ trực tiếp chỉ đạo lĩnh vực mình phụ trách (văn hóa, văn học nghệ thuật, thể thao).

Kể từ đó, anh em tôi có nhiều cuộc gặp nhau trong công việc, lại có nhiều cái cùng: cùng là dân văn khoa sư phạm (anh sư phạm Huế, tôi sư phạm Hà Nội); cùng là nhà văn (anh sáng tác, tôi viết nghiên cứu phê bình, thỉnh thoảng đá đưa sáng tác); cùng là nhà giáo; cùng được nhạc sĩ Trần Hoàn nhận về làm cán bộ văn hóa - văn nghệ (anh trước, tôi sau; anh lãnh đạo, tôi chuyên viên)...

Ngày 11/4/2007, Bộ Chính trị ra quyết định sáp nhập Ban Khoa giáo Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, hợp nhất thành Ban Tuyên giáo Trung ương. Từ sau khi hai vụ sáp nhập, anh em chúng tôi về chung một nhà, trụ sở ở số 2B Hoàng Văn Thụ (Ba Đình, Hà Nội). Anh là vụ trưởng và chúng tôi là cấp phó giúp việc vụ trưởng.

Có một Đỗ Kim Cuông "ba trong một" - Ảnh 1.

Nhà văn Đỗ Kim Cuông (1951 - 2025)

Có một Đỗ Kim Cuông  - cộng hưởng giữa lãnh đạo văn nghệ và sáng tác

Trải nghiệm qua nhiều vị trí công tác đã cho anh nhiều kinh nghiệm quý giá. Sự cộng hưởng, kết hợp hài hòa giữa tố chất người lãnh đạo văn nghệ và cũng là người sáng tác "cùng hội cùng thuyền" là thế mạnh ở anh.

Anh thường nói với chúng tôi lĩnh vực văn học nghệ thuật có tính đặc thù, gắn liền với quá trình sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn học là lĩnh vực tinh tế của văn hóa. Tài năng làm nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Văn nghệ sĩ là người có nhiều ý tưởng mới mẻ, mở đường, tiên phong đi trước, gắn liền với cá tính sáng tạo và cái tôi cá nhân.

Con đường và phương thức sáng tạo của văn nghệ sĩ phong phú, đa dạng, muôn hình, vạn trạng, có tính dự báo rất cao. Vì thế, mỗi cán bộ, chuyên viên của vụ phải hiểu lao động sáng tạo đó, tôn trọng nghệ thuật và nghệ sĩ; có cách tiếp cận, phương pháp làm việc, có nhiều hài hòa sao cho thấu tình, đạt lý trên tinh thần khách quan, dân chủ, công bằng, biện chứng, toàn diện, không chủ quan, xuê xoa, dễ dãi. Đặc biệt, tránh cái nhìn hẹp hòi, cảm tính cá nhân, áp đặt, quy chụp, một chiều...

Chả thế mà "đại bản doanh" của Vụ Văn hóa - Văn nghệ chúng tôi ở giữa Ba Đình lộng gió luôn mở cửa đón khách văn nghệ sĩ ghé thăm. Nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà văn Tùng Điển, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát, nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm, đạo diễn Trần Vịnh, NSND Chu Thúy Quỳnh... đến chơi, trao đổi thẳng thắn, cởi mở về văn học nghệ thuật.

Có lần, nhà thơ Hoàng Cát đến, anh giới thiệu với tôi đây là nguyên mẫu truyện ngắn Người đi xe máy một chân của anh. Nghe thế, nhà thơ Hoàng Cát cười rổn rảng, gọi Đỗ Kim Cuông là "Dân văn nghệ làm quan văn nghệ".

Tiếp xúc với anh điều dễ nhận thấy là năng lực quản lý, tư duy đổi mới và tấm lòng nhân hậu của một nghệ sĩ, nhà lãnh đạo văn nghệ giàu tính quyết đoán, vững vàng, nhân hậu. Anh hiền lành, điềm đạm, lặng lẽ, bao dung, lắng nghe sâu sắc, nhưng cũng có lúc anh nóng giận. Điềm tĩnh, lắng nghe nhưng cũng bộc trực, thiếu kiềm chế. Hiền thê Trần Thái Phan của anh rất hiểu điều đó. Quan trọng là sau mỗi lần như vậy, anh luôn tự biết điều chỉnh bản thân một cách chân thành nhất, sâu sắc nhất.

Tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Kim Cuông

Có một Đỗ Kim Cuông nhà văn

Tôi cảm phục vô cùng sức viết của anh với 14 tiểu thuyết và 7 tập truyện ngắn. Xuất bản cuốn sách nào, anh đều tặng bạn hữu rất trân trọng. Có lần, vào ngày nghỉ cuối tuần, tôi đến thăm gia đình anh ở Cầu Giấy để đưa cuốn sách của một người bạn tặng. Chị Trần Thái Phan - người bạn đời của anh - cho biết anh đang viết trên phòng văn. Mà những lúc anh tập trung viết, không ai dám ngắt dòng cảm xúc sáng tạo đó...

Đọc các cuốn sách của anh, điều dễ thấy vùng phủ sóng là hiện thực cuộc chiến tranh khốc liệt, trong đó chiến trường Trị Thiên - Huế xuất hiện với tần suất đậm đặc. Cũng dễ hiểu, bởi kể từ khi nhập ngũ năm 1968, người lính 17 tuổi ra đi từ quê lúa Thái Bình đã có mặt ở chiến trường Trị Thiên - Huế từ chiến dịch Xuân 1968, qua Xuân 1972 và đến chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 toàn thắng.

Ký ức chiến trường vây bám anh, chẳng chịu "buông tha": "Sau những cuộc giao tranh, phòng tuyến sông Bồ đã hình thành" (Một chuyến vô Nam); "Mùa khô 1969, thật khủng khiếp. Khắp rừng núi Trị - Thiên đâu đâu cũng thấy lính Mỹ thuộc Sư đoàn Kỵ binh bay số I càn quét, chiếm đóng các điểm cao. Suốt dải giáp ranh bao quanh Huế, chúng đổ quân xây dựng nhiều cứ điểm phòng thủ. Quân Mỹ, quân ngụy rải quân chốt chặt đường 12, càn lên cả đường tuyến vùng A So, A Lưới" (Người đi xe máy một chân); "Phong và Phưởng xách súng bước vào khu hậu cứ của đại đội 4, đồng hồ chỉ ba giờ sáng. Nhô đưa cho Phong cây đèn pin. Suốt đoạn đường, men theo con suối để tới địa đạo, cây rừng bị bom chém trơ trụi cành lá. Từ sau Mậu Thân 1968, đồi 310 có tên là đồi Địa Đạo, trong ruột quả đồi có hầm ngầm mở ra ba cửa. Hai tiểu đoàn công binh của quân khu đã phải làm việc cật lực suốt một tháng trời đào vét đất đá lát đà gỗ, dựng nhà hầm để chuẩn bị nơi đây thành cứ điểm chỉ huy tiền phương của quân khu Trị Thiên trong chiến dịch tấn công về Huế" (Phòng tuyến sông Bồ)...

Mở đầu tiểu thuyết Trang trại hoa hồng, nhà văn đề từ "Tưởng nhớ những người bạn của tôi đã hy sinh trên chiến trường Trị Thiên - Huế", như một nén nhang tưởng niệm mang thông điệp tri ân. Không đi sâu hiện thực của trận đánh, không tập trung miêu tả tiếng súng ầm oàng khốc liệt, mà tiểu thuyết khắc chạm số phận con người mang cảm hứng phi sử thi.

Nhà văn Hoàng Cát cho rằng Trang trại hoa hồng là "cuốn sách không dễ đọc. Đó là thông điệp tối hậu của tiểu thuyết nhà văn xuất thân từ người lính, người sĩ quan quân giải phóng Đỗ Kim Cuông". Còn nhà văn Nguyễn Thế Quang đánh giá: "Giữa những thành công mới của tiểu thuyết đương đại, cuốn sách là một ấn phẩm nổi lên, giàu gam màu và có hương vị riêng không lẫn vào ai khác, rất đáng đọc và suy ngẫm".

Có một Đỗ Kim Cuông "ba trong một" - Ảnh 3.

Tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ”

Sự phát triển biện chứng này từng được nhà văn Đỗ Kim Cuông khẳng định: "Những trang viết về chiến tranh cách mạng, về cuộc sống ngày hôm nay, phải khác với ngày hôm qua. Một đời là 30 năm đủ để cho nhà văn suy ngẫm một cách nghiêm túc nhất về hiện thực của đời sống, về chiến tranh cách mạng. Có những giá trị, chuẩn mực xã hội đã đổi thay, nhà văn cần có một cái nhìn mới, cách nghĩ mới về cuộc sống, con người để làm sao đưa đến cho bạn đọc những trang viết chân thật nhất, về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, về cuộc sống và con người Việt Nam với bao niềm vui, nỗi buồn, hy vọng trong biến thiên của lịch sử. Chúng ta không có quyền thi vị hóa cuộc sống nhưng cũng không được bạc bẽo với nó". Như một tuyên ngôn, nhà văn chia sẻ "Văn chương không cứu được thế giới, nhưng có thể cứu được con người khỏi sự khô cằn của chính mình".

Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25/4/1951, tại Thái Bình (cũ), đã qua đời lúc 6h ngày 23.10.2025 (tức ngày 3 tháng 9 năm Ất Tỵ), hưởng thọ 75 tuổi.

Hiện lên trong những tác phẩm của anh còn là bức tranh nông thôn trong trẻo, dung dị. Đó là "Bữa cơm chiều có canh cua đồng, cà bát muối và tép khô"; là cảnh vật, âm thanh quen thuộc "Bầy trâu phơi mình dưới ánh trăng chiếu hắt vào từ hướng ngoài sông. Làng quê thanh bình, yên ả. Vang lên tiếng sáo diều. Rặng nhãn dọc theo bờ đê quả sai trĩu cành... Ngọn gió mát từ sông đưa lên" và nhân vật tự họa "tìm đến chân một đống rơm cao ngất ngưởng nằm tựa vào bờ cỏ nhìn lên bầu trời dày đặc một dàn sao" (Nửa vầng trăng khuyết)...

Có một Đỗ Kim Cuông nhà thơ

Lần đầu tiên tôi đọc được bài thơ Tạ từ của anh trong tập Ký ức vụn:

Ta về gửi lại chiều mưa

Bơ vơ sông với con đò quạnh hiu

Nói gì với mẹ ngàn yêu

Bóng chiều đã nhạt cơm niêu một mình

Ta về gửi áo lại đình

Để em lẻ bóng một mình ngẩn ngơ

Bao giờ ngô lại trổ cờ

Hoa xoan rắc tím đường tơ hỡi người

Ta về bát ngát biển khơi

Em nghe gió giật bồi hồi chẳng yên

Chòm sao Bắc Đẩu nhìn nghiêng

Trăng mờ lại ngỡ sương đêm mưa phùn

Nắng hanh hao gió dập dồn

Ngàn năm thương vọng tiếng hồn người xưa

Em về thương lắm chiều mưa

Còn không bạn cũ đò đưa một ngày...

Không riêng tôi, nhiều bạn văn cũng hết sức ngạc nhiên và khen thơ. Là người bạn thân của nhà văn Đỗ Kim Cuông từ Nha Trang, nhà báo Nguyễn Thế Khoa cũng phải trầm trồ "Rất hay. Thân với anh Cuông mấy chục năm mà chưa được đọc bài thơ này". Nhà thơ Trần Đăng Khoa thốt lên "Hóa ra Đỗ Kim Cuông là nhà thơ giời ạ. Văn là phần ông viết thêm thôi".

 ***

Tiếp xúc với anh điều dễ nhận thấy là năng lực quản lý, tư duy đổi mới và tấm lòng nhân hậu của một nghệ sĩ, nhà lãnh đạo văn nghệ giàu tính quyết đoán, vững vàng, nhân hậu. Trải nghiệm ở các vị trí công tác: Vụ trưởng Vụ Văn hóa Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam... đã cho anh năng lượng đó.

Các tiểu thuyết đã xuất bản: Người đàn bà đi trong mưa (1986), Nửa vành trăng khuyết, Một nửa đại đội (1987), Hai người còn lại (1988), Bắc Huế (1988), Thung lũng tử thần (1990), Miền hoang dã (1991), Vùng trời ảo mộng (1991), Mảnh sân sau u ám (1991), Người dị hình (1995), Giáp ranh (1996), Cát trắng (1997), Phòng tuyến sông Bồ (2008), Chớp biển (2010), Sau rừng là biển (2011), Lời hẹn với Sê-pôn (2012), Trang trại Hoa Hồng (2014)…

Các tập truyện ngắn: Tự thú của người gác rừng (1996), Đêm ngâu (1997), Một mảnh hồn quê (1998), Thủ lĩnh vùng sông Tô (2001), Chuyện tình ở biển (2001), Người kéo vó bè (2002), Đá trắng (2007)…

Giải thưởng văn học: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1984. Giải thưởng Văn nghệ Khánh Hòa năm 1975 - 2000. Giải Cây bút vàng của Hội Nhà văn Việt Nam và tạp chí Văn nghệ công an năm 1998. Giải thưởng truyện vừa của Hội Nhà văn Việt Nam và NXB Giáo dục 2004...

PGS-TS Lê Thị Bích Hồng

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm