Chuyện khó tin ở làng săn cá ngừ

16/05/2011 14:09 GMT+7 | Thế giới

(TT&VH) - Gần 20 năm trước, làng Phú Câu là nơi phát tích nghề đánh bắt cá ngừ đại dương đầu tiên tại duyên hải Nam Trung bộ - một nghề đang rất “hot” hiện nay. Những ngày tháng 5 này, cảng cá làng Phú Câu (phường 6, TP. Tuy Hòa, Phú Yên) gần như vắng bóng tàu thuyền (ghe), vì tất cả đang ở ngoài khơi trong chuyến đánh bắt cá ngừ đại dương, mỗi chuyến kéo dài khoảng một tháng.

Cá ngừ đại dương được dân bản địa gọi là cá bò gù, cái tên rất tượng hình được dùng mô tả hình dạng của loài cá này. Đơn giản vì cái lưng của cá ngừ “gù”, thịt đỏ như thịt bò và mỗi con nặng khoảng 40kg.

Cá ngừ từng vứt lăn lóc trên đường…

Cá ngừ đang là sản vật quý giúp ngư dân các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận có cuộc sống no đủ nhờ được xuất khẩu sang thị trường Nhật, Mỹ. Nhưng khoảng 20 năm trước, loài cá này bị vứt lăn lóc khi ngư dân tóm được. Khi câu được cá ngừ, chủ tàu thường cho “người đi bạn” - người đi câu thuê, mà không dùng loại cá này vào bất cứ việc gì. “Người đi bạn” thường cho lại phụ nữ trong làng và họ cắt cá bò gù ra từng khúc như tấm thớt rồi xát muối hột vứt trên đường cái cho nắng gió hong khô. Cá ngừ đại dương ngày đó chỉ có một thị trường duy nhất là các tỉnh Tây Nguyên thiếu cá biển, nên khô cá ngừ đại dương bán với giá rất bèo.

Cá ngừ về cảng cá phường 6, làng Phú Câu. Ảnh: Dương Thanh Xuân

Tại sao cá ngừ một thời bị đối xử không “xứng tầm” như một sản vật quý của đại dương? Theo các lão ngư trong làng Phú Câu, hầu hết đều cho đó là phong tục của dân biển là tục thờ cúng cá voi hoặc cá heo. Làng Phú Câu có hẳn một ngôi đình để hương khói cho hài cốt hai loài cá này. Cá voi được ngư dân gọi là “ông Nam Hải” và cá heo là “ông Nược”. Chính vì vậy nên các chủ tàu thường ít khi “ăn thịt” loại cá có kích cỡ to và hiền lành giống cá voi và cá heo. Cá bò gù nhiều đặc điểm giống hai loài cá thiêng này.

Câu chuyện mà các lão ngư kể đã thuộc về quá khứ, lý do chính khiến cá ngừ không có giá là vì ngư dân không biết cách “ăn thịt” chúng. Theo ngư dân làng Phú Câu, món cá ngừ đại dương ăn sống với mù tạt và rau thơm hiện rất được ưa chuộng trong các nhà hàng sang trọng, nhưng trước kia không hề có. Cá biển nhiều loại nấu chín rất thơm ngon, trong khi thịt cá ngừ nấu chín thì “chỉ có cho heo ăn”.

Làng Phú Câu cũng như nhiều làng biển khác ở tỉnh Phú Yên có nhiều Việt kiều. Theo dân làng, để ngư dân Tuy Hòa biết đến nghề câu cá ngừ đại dương phải kể đến công “phát hiện” của những Việt kiều hồi hương.

Đầu thập niên 90, khi Nhà nước mở cửa, nhiều Việt kiều ở phường 6, TP.Tuy Hòa đã về quê thăm người thân. Trong số đó có một Việt kiều đang làm nghề buôn bán cá ở Nhật. Khi nhìn thấy cá bò gù vứt lăn lóc trên đường cái, ông này không khỏi giật mình tiếc nuối, vì ở Nhật cá ngừ có giá... như sâm. Sau khi về Nhật, ông bắt đầu đặt hàng người thân tại làng Phú Câu đánh bắt loại cá này. Hiệu quả cao, dần dà việc đánh bắt cá ngừ mở rộng thành một làng nghề.

Sơ chế cá ngừ ngay tại tại cảng cá. Ảnh: Dương Thanh Xuân

Đời chim trời cá biển

Khoảng 20 năm trước, bến cá làng Phú Câu chỉ có khoảng 20 chiếc tàu có công suất lớn để đánh bắt xa bờ. Những chiếc tàu này ngư dân gọi là “ghe câu to” chuyên đi câu cá nhám - tức cá mập - để lấy vây bán cho các thương lái “bào ngư vi cá”. Từ khi nghề câu cá ngừ phát triển, đến nay có khoảng 400 tàu loại này tính ở cả hai làng biển Phú Câu (phường 6) và Đông Tác (phường Phú Thạnh) nằm hai bên cửa biển Đà Rằng.

Anh Lộc - Trưởng cảng cá phường 6 cho biết: “Lúc vật giá chưa leo thang, mỗi chuyến ra khơi cần khoảng 100 triệu đồng/ tàu. Nay “tổn” - chi phí ra khơi - phải hơn 100 triệu đồng gồm dầu và nước đá và các chi phí khác. Nếu mỗi tàu bắt được khoảng 25 con, mỗi con trung bình 40kg là lỗ. Có tàu sau một tháng trên biển thu về hàng tỷ đồng nhưng cũng có tàu chỉ về chừng mười con cá xem như lỗ.

Thường thì, các tàu trước khi xuất bến đều được các chủ “cây dầu” và nhà máy nước đá bán nợ trước cho. Nếu về có lãi thì trả nợ liền, bằng không “ghi sổ” đợi chuyến sau. Nhưng sống đời “chim trời cá biển” thì không có gì chắc chắn để nói rằng chuyến ra khơi lần này là thắng lợi. Có rất nhiều chủ tàu đã phải bán ghe, bán nhà để trả nợ do chuyến đi nào cũng lỗ vốn.

Ngư dân ở đây đều cho rằng ra khơi ngoài chuyện “hên xui” còn là kinh nghiệm “bí truyền” để biết cách bắt được nhiều cá bò gù hay không. Khi mới phát triển nghề này, ngư dân không biết dùng mồi gì để cá bò gù “khoái khẩu” nên hiệu quả “dính câu” rất thấp. Sau này mọi người mới phát hiện, món khoái khẩu ấy hóa ra lại là con cá chuồn - một loại cá rất nhiều trên biển. Nhưng cá ngừ cũng “đổi món” chứ đâu chỉ quanh năm ăn cá chuồn? Thế rồi ngư dân làng Phú Câu tìm ra mực tươi và nhiều loại mồi khác. Bây giờ, thời tiết nào, mùa nào trong năm thì dùng mồi câu gì để “dụ” cá ngừ vẫn là một “bí mật” của riêng từng tàu trên cảng cá Phú Câu.

Chuyện đủ vốn, có lời hay lỗ là “chuyện thường ngày ở huyện” đối với ngư dân, những người “sống trên bờ chờ dưới nước”. Nhưng chuyện sóng to gió lớn, gặp nạn tàu chìm, người chết mất tích cũng chẳng phải hiếm ở làng cá nơi đây. Dân đi biển có truyền thống là mỗi gia đình đều có ký hiệu riêng trên người để khi chết đi lâu ngày vẫn có thể nhận biết. Nhiều trường hợp gia đình vẫn có thể nhận ra người thân là nhờ vết xăm giống nhau. Ngư dân còn có truyền thống “sống chết có nhau” khi gặp nạn trên biển. Nếu biết chắc là “trời không tha” thì họ sẵn sàng dùng dây cột nhau thành một chùm, để khi tìm thấy xác thì tìm thấy cả hội.

Câu cá ngừ đại dương hiểm nguy là thế nhưng thành quả ngư dân nhận được không phải lúc nào cũng tương xứng. Ngoại trừ một vài hộ ngư dân được “trời đãi”, đa phần cũng chỉ đắp đổi qua ngày. Một chiếc tàu khoảng từ 7 - 10 người lênh đênh trên biển một tháng ròng, nếu bắt được khoảng 50 con cá bò gù loại 40kg trở lên, giá cá hiện này từ 130 - 170.000 đồng/kg, sau khi trừ phí tổn, thì chia ra mỗi người có khoảng 10 triệu đồng. Nghề này chỉ có cánh đàn ông làm nuôi phụ nữ và trẻ con ở nhà. 10 triệu đồng ấy chỉ có thể chi tiêu trong tháng và dành cho những tháng dài biển động. Xem ra, nghề câu cá ngừ đại dương đang rất “hot” hiện nay cũng không dễ dàng gì, nếu không muốn nói là nghề rất bạc, bạc như biển.

Trần Hoàng Nhân

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm