16/12/2025 11:32 GMT+7 | Tin tức 24h
10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương ở miền Bắc (mang mật danh Linebacker II). Sáng 18/12/1972, Phủ Thủ tướng điện chỉ đạo các bộ, cơ quan và một số địa phương: "Địch có thể ném bom Hà Nội - Hải Phòng, cần thực hiện tốt kế hoạch sơ tán nhân dân của thành phố".
Bộ Tổng Tham mưu điện chỉ đạo các đơn vị: "Đề phòng địch dùng B-52 đánh phá các mục tiêu trọng điểm. Các binh chủng: pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa, không quân, pháo binh sẵn sàng chiến đấu, kịp thời đánh trả máy bay, tàu chiến địch. Tổ chức quan sát, báo động, sơ tán, đào hầm hào, phối hợp với Công an và nhân dân làm tốt công tác bảo vệ an ninh, bảo vệ tài sản".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, ngày 30/12/1972, lực lượng nòng cốt cùng quân và dân Thủ đô đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ vào Hà Nội. Ảnh: TTXVN
Sau 12 ngày đêm chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược đường không quy mô lớn chưa từng có của đế quốc Mỹ, làm nên Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Chiến thắng ấy không chỉ là một kỳ tích quân sự, mà còn trở thành biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Vì sao Mỹ buộc phải đánh Hà Nội và miền Bắc bằng B-52
Cuối năm 1972, khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã kéo dài gần hai thập niên, dưới sự đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam, đế quốc Mỹ dần mất thế chủ động. Mọi chiến lược quân sự lớn mà chúng lần lượt áp dụng đều không đạt được mục tiêu đề ra. Trên chiến trường miền Nam, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" bộc lộ nhiều hạn chế. Trên bàn đàm phán Hiệp định Paris, Mỹ rơi vào thế bị động, buộc phải đối mặt với lập trường kiên định, nhất quán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong bối cảnh ấy, Mỹ quyết định mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc. Đây là lựa chọn mang tính bắt buộc trong tính toán chiến lược của Washington. Đó là nỗ lực cuối cùng nhằm đảo ngược cục diện chiến tranh bằng sức mạnh quân sự, tạo ưu thế quyết định để áp đặt điều kiện trên bàn đàm phán.

Trong Chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972, Không quân nhân dân Việt Nam đã bắn rơi 7 chiếc máy bay, trong đó có 2 “Siêu pháo đài bay B-52”. Các biên đội không quân 8 lần phá vỡ đội hình bay chiến đấu của địch, tạo điều kiện cho tên lửa và các lực lượng phòng không đánh thắng. Trong ảnh: Máy bay Mig-21 xuất kích tiêu diệt máy bay địch. Ảnh: Tư liệu TTXVN
B-52 là loại máy bay ném bom chiến lược hiện đại bậc nhất thời bấy giờ, được mệnh danh là "pháo đài bay" vì khả năng mang theo khối lượng bom khổng lồ và bay ở độ cao lớn, vượt xa tầm với của phần lớn hệ thống phòng không. Bên cạnh đó, những "pháo đài bay" này còn được trang bị nhiều máy gây nhiễu để gây khó khăn cho hệ thống radar, tên lửa phòng không của đối phương. Với ưu thế đó, Mỹ kỳ vọng rằng B-52 sẽ nhanh chóng san phẳng các mục tiêu quan trọng như Hà Nội, Hải Phòng, các trung tâm kinh tế, chính trị và quân sự lớn ở miền Bắc Việt Nam, buộc đối phương phải chấp nhận nhượng bộ trên bàn đàm phán tại Paris.
Việc Hà Nội trở thành trọng điểm số một của chiến dịch Linebacker II cũng xuất phát từ logic ấy. Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính của miền Bắc, mà còn là biểu tượng của ý chí kháng chiến, nơi hội tụ niềm tin và quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam. Đánh vào Hà Nội, đối với Mỹ, là đánh vào "trái tim" của cuộc kháng chiến, là phép thử cuối cùng đối với sức chịu đựng và bản lĩnh của Nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, Linebacker II được chuẩn bị và triển khai với quy mô chưa từng có. Mỹ đã huy động tới 193 chiếc B-52 (gần một nửa tổng số B-52 trong biên chế không quân chiến lược). Đây là cuộc tập kích đường không chiến lược lớn nhất, dữ dội nhất mà Mỹ từng tiến hành tại Việt Nam.
Tuy nhiên, điều mà các nhà hoạch định chiến lược Mỹ không lường hết được là: Hà Nội không bị động chịu trận, mà đã chủ động chuẩn bị từ rất sớm để đối phó với loại phương tiện vũ khí quân sự tối tân này.

Xác máy bay ném bom B-52 bị tên lửa của Tiểu đoàn 72, Sư đoàn 361 bắn rơi tại chỗ xuống phố Hoàng Hoa Thám (Hà Nội) đêm 27/12/1972. Ảnh: Minh Trường - TTXVN
Sự chuẩn bị chiến lược từ sớm, từ xa
Một trong những yếu tố mang tính quyết định làm nên chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" chính là tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị lâu dài, chủ động của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta, mà tiêu biểu là những dự báo sớm, chính xác của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khả năng Mỹ sử dụng B-52 trong chiến tranh Việt Nam.
Ngay từ năm 1962, khi B-52 còn chưa trực tiếp tham chiến tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến loại máy bay ném bom chiến lược này. Người yêu cầu lực lượng phòng không phải theo dõi chặt chẽ, nghiên cứu kỹ tính năng, quy luật hoạt động của B-52, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Đó không chỉ là sự nhạy bén về quân sự, mà là biểu hiện của tư duy chiến lược sâu sắc: chuẩn bị cho trận đánh khi nó còn chưa có trong kế hoạch của địch.
Những dự báo ấy không lâu sau đã trở thành hiện thực. Từ năm 1965, Mỹ bắt đầu sử dụng B-52 đánh phá miền Nam và khu vực Vĩnh Linh. Trước yêu cầu cấp bách của thực tiễn, Quân chủng Phòng không-Không quân đã tổ chức cho các đơn vị tên lửa cơ động vào chiến trường, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa nghiên cứu cách đánh B-52 trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Việc Tiểu đoàn 84, Trung đoàn 238 bắn rơi chiếc B-52 đầu tiên tại Vĩnh Linh năm 1967 là dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt: lần đầu tiên, "pháo đài bay" bị đánh bại trong điều kiện chiến tranh thực tế.

Xác máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ bị quân và dân Hà Nội bắn rơi đêm 26/12/1972. Ảnh: TTXVN
Từ đây, quá trình tích lũy kinh nghiệm đánh B-52 được tiến hành một cách có hệ thống. Ta không chỉ đánh để giành thắng lợi trước mắt, mà còn đánh để rút ra quy luật, hoàn thiện phương pháp tác chiến cho những trận đánh lớn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội". Nhận định ấy vừa là cảnh báo, vừa là định hướng chiến lược cho toàn bộ công tác chuẩn bị.
Trên cơ sở đó, từ đầu năm 1968, kế hoạch đánh trả cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 vào Hà Nội đã được xây dựng với tầm nhìn dài hạn. Đây là một kế hoạch đặc biệt, bởi nó được hình thành trong khi phía Mỹ còn chưa công khai ý đồ sử dụng B-52 đánh phá ồ ạt miền Bắc. Qua nhiều năm bổ sung, điều chỉnh trên cơ sở thực tiễn chiến đấu, kế hoạch ngày càng hoàn chỉnh, sát thực tế hơn.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của quá trình chuẩn bị ấy là tài liệu "Cách đánh B-52" - cuốn cẩm nang ngắn gọn nhưng hàm chứa trí tuệ và kinh nghiệm của hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ phòng không. Tài liệu này không chỉ tổng kết các trận đánh trước đó, mà còn dự báo các thủ đoạn mới của không quân Mỹ, đề ra phương án đối phó trong điều kiện địch tăng cường gây nhiễu, đánh phá ác liệt hơn.

Bộ phận rada, đại đội 79 pháo cao xạ Thủ đô với kỹ thuật chính xác đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Ảnh: Hứa Kiểm – TTXVN
Cuối năm 1972, khi tình hình trên bàn đàm phán Paris trở nên căng thẳng, toàn bộ công tác chuẩn bị về con người, lực lượng, thế trận, phương án tác chiến đã cơ bản hoàn tất. Hội nghị cán bộ toàn Quân chủng Phòng không - Không quân được tổ chức để quán triệt quyết tâm, thống nhất cách đánh, bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng. Hà Nội chuẩn bị bước vào trận đánh không phải với tâm thế bị bất ngờ, mà với sự chủ động của một thế trận đã được chuẩn bị kỹ lưỡng qua nhiều năm.Chính sự chuẩn bị từ sớm, từ xa ấy đã tạo nền tảng quyết định để quân và dân Thủ đô có thể đứng vững, chiến đấu và chiến thắng trong 12 ngày đêm khốc liệt cuối tháng 12/1972.
Phá vỡ huyền thoại B-52
10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, ngay sau khi Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh mở cuộc tiến công đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã miền Bắc, toàn bộ lực lượng vũ trang và Nhân dân miền Bắc bước vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
18 giờ 50 phút ngày 18/12/1972, Quân chủng Phòng không - Không quân chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cấp 1. Đến 19 giờ 10 phút, Đại đội ra-đa 16 phát hiện nhiễu B-52. Sau đó, 19 giờ 15 phút, Trung đoàn 291 phát hiện B-52 và báo cáo: "B-52 đang vào miền bắc". 19 giờ 25 phút, không quân ta được lệnh cất cánh đón đánh các tốp máy bay chiến thuật của địch. Từ 19 giờ 25 phút đến 20 giờ 18 phút, nhiều tốp B-52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. 19 giờ 44 phút, quả đạn tên lửa đầu tiên của Tiểu đoàn 78 thuộc Trung đoàn Tên lửa 257 được phóng lên - cuộc chiến đấu 12 ngày đêm của lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ Hà Nội bắt đầu.
Đây là cuộc đối đầu quyết liệt giữa chiến tranh công nghệ cao của Mỹ với nghệ thuật chiến tranh Nhân dân Việt Nam. Phía Mỹ tin tưởng tuyệt đối vào ưu thế kỹ thuật của B-52 và hệ thống tác chiến điện tử hiện đại; Việt Nam dựa vào thế trận phòng không nhiều tầng, nhiều lớp, sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng và khả năng thích ứng linh hoạt trước mọi thủ đoạn của đối phương.

Phân đội 1, bộ đội tên lửa bảo vệ thủ đô chiến đấu mưu trí, dũng cảm góp phần cùng quân dân thủ đô bắn rơi 9 máy bay Mỹ trong ngày 10/5/1972. Ảnh: Văn Bảo – TTXVN
Trong những đêm đầu, Mỹ sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm làm tê liệt hệ thống phòng không miền Bắc: gây nhiễu điện tử với cường độ lớn, tổ chức đội hình B-52 bay tập trung, có tiêm kích và cường kích hộ tống dày đặc; đồng thời đánh phá quyết liệt các trận địa phòng không, sân bay, kho tàng. Mật độ nhiễu dày, thủ đoạn nghi binh tinh vi và cường độ tiến công cao đã đặt lực lượng phòng không Việt Nam trước những thử thách lớn.
Tuy nhiên, chính trong điều kiện khốc liệt ấy, bản lĩnh, trí tuệ và khả năng sáng tạo của quân và dân ta được phát huy cao độ. Bộ đội radar kiên trì bám trụ, từng bước "vạch nhiễu, tìm thù", bảo đảm thông tin kịp thời, chính xác cho các đơn vị hỏa lực. Bộ đội tên lửa linh hoạt điều chỉnh cách đánh, lựa chọn cự ly, thời điểm phóng đạn phù hợp với từng tình huống cụ thể. Pháo phòng không và lực lượng phòng không địa phương tạo thành lớp lửa tầm thấp, bảo vệ mục tiêu trọng yếu, đồng thời gây áp lực liên tục lên đội hình tiến công của địch. Không quân tiêm kích, trong điều kiện vô cùng khó khăn, vẫn kiên quyết xuất kích, góp phần phân tán đội hình và làm rối loạn thế tiến công của đối phương.
Nét đặc sắc nổi bật trong cách đánh của ta là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng trong một thế trận thống nhất. Không một lực lượng nào đơn độc đối đầu với B-52; mỗi mắt xích đều giữ vai trò quan trọng trong tổng thể "lưới lửa" phòng không nhiều tầng, nhiều lớp. Chính thế trận ấy đã từng bước làm giảm ưu thế kỹ thuật của không quân Mỹ, buộc B-52 phải hoạt động trong điều kiện ngày càng bất lợi, bị phát hiện và tiêu diệt.
Cao trào ác liệt nhất của chiến dịch diễn ra vào đêm 26/12/1972, khi Mỹ huy động hơn 100 chiếc B-52, phối hợp cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, tập trung tấn công Hà Nội với mật độ bom chưa từng có, hy vọng giành thắng lợi quyết định. Nhưng đây cũng là thời điểm thế trận phòng không của ta phát huy hiệu quả cao nhất. Trong màn lửa bom ác liệt, lực lượng phòng không Việt Nam, với tinh thần quả cảm và chiến thuật xuất sắc, đã bắn rơi 8 máy bay B-52, trong đó có 5 chiếc rơi tại chỗ. Tổn thất đặc biệt nặng nề này đã giáng đòn mạnh vào niềm tin của giới chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, làm thay đổi căn bản cục diện chiến dịch.

Trong Chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972, Không quân nhân dân Việt Nam đã bắn rơi 7 chiếc máy bay, trong đó có 2 “Siêu pháo đài bay B-52”. Các biên đội không quân 8 lần phá vỡ đội hình bay chiến đấu của địch, tạo điều kiện cho tên lửa và các lực lượng phòng không đánh thắng. Trong ảnh: Tên lửa của bộ đội ta xuất kích. Ảnh: TTXVN
Sau đêm 26/12, cuộc tập kích đường không chiến lược của Mỹ rơi vào thế không thể cứu vãn. Những tổn thất liên tiếp, nhất là đối với lực lượng B-52 - "con Át chủ bài" của toàn bộ kế hoạch - khiến mục tiêu áp đặt ý chí bằng sức mạnh quân sự hoàn toàn phá sản.
Trong 12 ngày đêm, đế quốc Mỹ đã sử dụng 663 lần chiếc B-52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném hơn 100 nghìn tấn bom, đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng và nhiều thành phố, thị xã miền Bắc. Riêng tại Hà Nội, địch sử dụng 441 lần chiếc B-52 cùng nhiều máy bay chiến thuật ném bom xuống các khu phố, sân bay, nhà ga, bệnh viện, trường học. Hậu quả để lại vô cùng nặng nề: hàng nghìn người dân thiệt mạng, nhiều công trình kinh tế, văn hóa, y tế và cơ sở hạ tầng bị phá hủy nghiêm trọng; trong đó, phố Khâm Thiên, khu vực có mật độ dân cư đông nhất Thủ đô, bị tàn phá đặc biệt nặng nề, trở thành biểu tượng đau thương nhưng bất khuất của Hà Nội trong những ngày bom lửa.
Đổi lại, trong 12 ngày đêm ấy, quân và dân miền Bắc đã bắn hạ 81 máy bay Mỹ các loại, trong đó có 34 chiếc B-52 và 5 chiếc F-111. Riêng trên bầu trời Hà Nội, ta bắn rơi 30 máy bay, gồm 23 chiếc B-52 và 2 chiếc F-111; gần 100 phi công Mỹ, phần lớn là phi công kỳ cựu, bị tiêu diệt và bắt sống.
Đây là lần đầu tiên Mỹ chịu tổn thất nặng nề đến như vậy trong một cuộc tập kích đường không chiến lược; riêng tỷ lệ tổn thất B-52 lên tới 17% (34/193 chiếc tham chiến). Tướng George Etter, Phó chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ, buộc phải thừa nhận: "Tổn thất về máy bay chiến lược B-52 cùng các nhân viên phi hành là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm Góc".

Trận địa pháo cao xạ của tự vệ Xí nghiệp xe ca khu phố Ba Đình (Hà Nội) bắn máy bay Mỹ trong đêm tháng 12/1972. Ảnh: Minh Lộc – TTXVN
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975), Việt Nam tiến hành một chiến dịch phòng không quy mô lớn nhất, đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 điên cuồng, dã man nhất của đế quốc Mỹ, đồng thời là cuộc tập kích đường không có quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại.
Giá trị lịch sử và tầm vóc thời đại của chiến thắng
Sáng 30/12/1972, Tổng thống Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng và miền Bắc Việt Nam, đồng thời chấp nhận trở lại bàn đàm phán tại Paris.
Cũng trong ngày 30/12/1972, các báo đồng loạt đăng toàn văn thông cáo của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam với lời khẳng định đanh thép: "Không có sức mạnh tàn bạo nào có thể khuất phục nổi dân tộc Việt Nam anh hùng". Trước đó, cụm từ giàu ý nghĩa "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không", cùng thông điệp "Hà Nội, lương tri và phẩm giá con người", lần đầu tiên xuất hiện trên Báo Nhân Dân, nhanh chóng được báo chí và dư luận quốc tế sử dụng để ca ngợi chiến thắng vĩ đại của Việt Nam.
Chiến thắng "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" có ý nghĩa quyết định trong việc buộc Mỹ ký Hiệp định Paris, rút toàn bộ quân viễn chinh và quân đồng minh, tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân ta tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng vượt lên trên ý nghĩa quân sự và ngoại giao trực tiếp, chiến thắng ấy còn mang giá trị lịch sử và thời đại sâu sắc.

Bộ đội tên lửa phòng không là lực lượng nòng cốt trong chiến thắng Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không tháng 12/1972, đập tan thần tượng "Siêu pháo đài bay B-52" của không lực Hoa Kỳ. Trong ảnh: Phân đội 57, bộ đội tên lửa bảo vệ thủ đô bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay Mỹ thứ 3700, ngày 27/6/1972 trên vùng trời Hà Nội. Ảnh: Ngọc Quán - TTXVN
Trước hết, đó là chiến thắng của tư duy chiến lược đúng đắn, thể hiện ở khả năng dự báo sớm, chuẩn bị từ xa và kiên trì xây dựng thế trận phòng thủ toàn diện. Những dự báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về B-52, cùng với sự chỉ đạo nhất quán của Đảng, đã tạo nên nền tảng vững chắc để quân và dân ta không bị động trước một cuộc tập kích được chuẩn bị công phu bậc nhất.
Thứ hai, chiến thắng khẳng định giá trị của chiến tranh Nhân dân trong điều kiện mới, nơi sức mạnh không chỉ nằm ở vũ khí, mà ở con người, ở tổ chức và ở sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng. Hà Nội không chỉ được bảo vệ bởi tên lửa và pháo phòng không, mà còn bởi ý chí kiên cường của Nhân dân Thủ đô, những người con không bao giờ chịu khuất phục, luôn sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.
Cuối cùng, "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không" là biểu tượng sinh động của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Chiến thắng ấy gửi đi một thông điệp rõ ràng: không một sức mạnh quân sự nào, dù hiện đại đến đâu, có thể khuất phục được một dân tộc đoàn kết, có đường lối đúng đắn và quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình.
Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những bài học từ 12 ngày đêm lịch sử cuối năm 1972 vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại mới.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất