Butoh - Vũ đạo của bóng tối

21/08/2013 08:16 GMT+7 | Văn hoá

(Thethaovanhoa.vn) - Một trong những giá trị lớn mà nghệ thuật Nhật Bản cống hiến cho nền nghệ thuật đương đại thế giới chính là múa Butoh, một điệu múa hấp dẫn đầy bí ẩn.

Thế giới vừa kỷ niệm 68 năm ngày 2 quả bom nguyên tử ném xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Đau thương tột cùng, nhưng đấy cũng là thời điểm Nhật Bản thật sự “lột xác”, thoát khỏi những chuẩn mực nghiêm khắc và ước lệ của xã hội để xây dựng một hình ảnh nước Nhật mới.

Đứa con của tự do

Mọi sự biểu lộ và sáng tạo nghệ thuật không còn bị hạn chế, các loại hình ca múa kịch phương Tây không còn bị cấm đoán và kiểm duyệt. Không khí tự do dẫn tới sự bùng nổ sáng tạo, các họa sĩ, nhà văn và diễn viên múa đem nghệ thuật xuống đường, tham dự và dựng kịch nghệ đường phố... Chính không khí này đã khởi hứng cho Tatsumi Hijikata, với sự trợ giúp của Kazuo Ohno, sáng tạo nên một hình thức nghệ thuật múa mới lạ hoàn toàn, có tên gọi là Butoh (cũng cần nói thêm là vào thời điểm ấy, vũ đạo phương Tây đang thịnh hành trên khắp nước Nhật).

Năm 1959, vở múa Butoh đầu tiên ra mắt tại Lễ hội Vũ đạo hiện đại ở Nhật Bản mang tên Kinjiki hay Những sắc màu bị cấm của Hijikata và Yoshito Ohno (con trai Kazuo). Tên khai sinh của Butoh là Ankoku Buyo nghĩa là “vũ đạo hắc ám”, rút ra từ tuồng Noh và Kabuki. Hijikata tìm cách cho công chúng nhìn thấy sự thực rằng vẻ dị hình, xấu xí và hắc ám kia (vốn là những chủ đề thường xuyên bị che đậy, tránh né và bị làm ngơ) đã và đang tồn tại trong chính nước Nhật. Đồng tính nam, một trong những chủ đề đặc biệt gây dị nghị vào thời điểm ấy, gần như bị nghệ thuật khước từ, cũng bắt đầu được thăm dò trong Butoh. Hijikata bị thu hút bởi những tư tưởng mới lạ của phương Tây, ông đặc biệt cảm hứng từ tranh của Bosch, Breugel và Goya, từ chủ nghĩa siêu thực, Dada, và sau đó là Pop Art của những năm 1960. Và được khởi hứng bởi những nhà văn như Mishima, Lautréamont, Artaud, Genet và De Sade với những cõi kỳ dị. Đồng thời, Hijikata khai phá sự biến chất của thân thể thành những hình thái khác, như của các loại động vật. Ông cũng khai triển một loại ngôn ngữ vũ đạo siêu thực và thi vị, gọi là butoh-fu (Vũ đạo phổ) để giúp người vũ công chuyển hóa thành những trạng thái khác trong cõi chúng sinh.

Loại sơn trắng bôi mặt mà vũ công Butoh thường dùng để bôi lên khắp thân thể, vốn được lấy từ tuồng Kabuki, trong khi những động tác chậm rãi, đầy ý nghĩa và trì tục giống với với động tác của tuồng Noh. Sự thiếu vắng vẻ biểu lộ của nhân tính, và muốn thể hiện chính mình với tính cách phi nhân, là đặc điểm chia sẻ giữa tuồng Noh và Butoh.

Cuộc nổi loạn vô ngôn

Có thể do vũ đạo vốn dĩ là vô ngôn, vì vậy nó không nói thẳng, và Butoh thể hiện bằng những cách khác thường khi nổi loạn không chỉ chống lại những khuôn sáo nghệ thuật truyền thống mà còn chống lại những ước lệ đã được chấp nhận của một xã hội có thiết chế nghiêm khắc. Rõ ràng trong cuộc nổi loạn chống lại nước Nhật cũ, Butoh đã tìm cách phá vỡ kịch nghệ và vũ đạo ước lệ, các vũ công Butoh thường trình diễn lõa thể, thân thể sơn toàn màu trắng. Sự lõa thể không hổ thẹn của Butoh đã đẩy một bước xa khỏi tính nhã nhặn kiểu Nhật. Sự kiện Nhật Bản ký kết Hiệp ước Hỗ tương quốc phòng với Hoa Kỳ ngày 8/9/1945 đã châm ngòi cho cuộc biểu tình bạo loạn của người Nhật, cũng là nhiên liệu sáng tạo của Hijikata. Những thân thể méo mó, dị hình trên sân khấu có thể xem như công nhận về sự thất bại của Nhật Bản. 

Vở múa Kinjiki dựa trên tiểu thuyết của Yukio Mishima, về đồng tính nam. Trước một đám khán giả khoảng 200 người, Hijikata đã tạo hiệu ứng giao cấu với một con gà, và siết chặt con gà này giữa đùi. Theo báo chí tường thuật, “có một vài khán giả đã ngất xỉu”. Chẳng bao lâu sau, Hijikata bị dán nhãn hiệu là diễn viên “nguy hiểm”. Còn đám đông khán giả bình thường cứ thắc mắc “không biết những vũ công này có phải đã trốn khỏi nhà thương điên hay không”. 

Một ví dụ đặc biệt khác cho thấy bước ngoặt Butoh bước ra khỏi chủ nghĩa bảo thủ và truyền thống Nhật là vở múa Xác thịt nổi loạn cũng của Hijikata. Hijikata bề ngoài như quỷ ám, ông được khiêng lên sân khấu trên cái kiệu, dưới một cái lọng; cạnh ông, một con thỏ lòng thòng trên cái sào, một con gà trống bị treo chân lên. Hijikata đóng khố, dậm dật theo tiết nhịp từng cơn. Trong cảnh khác, ông xuất hiện với bộ áo đầm. Ở cao trào, ông treo lơ lửng ngang sân khấu, dây thừng quấn quanh người, như thể bị phanh thây hoặc trong tư thế bị đóng đinh.

Tồn tại như một trào lưu nghệ thuật đơn độc, Butoh tuy không thể tác động mạnh lên xã hội Nhật nhưng hiệu quả của nó thật đáng nể đối với nền nghệ thuật và chính trị của đất nước mặt trời mọc từ cuối thập niên 1950. Khác với Michio Ito, một đồng nghiệp lẫy lừng, chu du và trình diễn khắp phương Tây và cũng ảnh hưởng rất lớn lên vũ đạo Nhật Bản hiện đại, Hijikata (1928-1986) trọn đời sống ở nước Nhật, ông từ chối nhận thẻ hộ chiếu, vì thấy không cần thiết ra khỏi nước Nhật. Một thực tế là nhiều nghệ sĩ Nhật Bản đã đạt được thành công ở Nhật nhưng rất khó được sự công nhận danh tiếng ở các nước phương Tây. Ngược lại, nhiều nghệ sĩ người Nhật rời đất nước, đạt thành tựu bên ngoài và rồi trở về quê nhà được đối đãi như những người hùng và được kính nể, trong khi nếu ở Nhật họ không được như vậy. Hiển nhiên, Hijikata chưa từng bước chân khỏi nước Nhật, nhưng sự truyền bá của vũ đạo Butoh ra khắp thế giới sau đó đã trở lại làm gia tăng sự thịnh hành của nó ở Nhật.

Vũ đạo là vô cùng vì còn mãi đánh thức cái “đời sống thuần tuý” vốn còn ngủ say trong thân thể mỗi người

Một hành trình không kết thúc

Butoh trong hiện tại không còn là “Butoh” như trước, mà được xem là “hậu-Butoh”, vì tuổi của nó đã xấp xỉ ngoài năm mươi kể từ buổi diễn Kinjiki. Xưởng vũ đạo của Hijikata, Asubesto Kan, sau khi ông qua đời vẫn còn duy trì, trong khi đó nhiều học trò của ông đã tỏa ra khắp theo những hướng riêng của từng người. Khác với loại vũ đạo thu hút đám đông với những màn hào nhoáng sân khấu, cái chất kỳ dị, thật đến nhiều khi sống sượng của Butoh khiến nó trực diện chạm trán với những chủ đề “bóng tối” như cái chết, đồng tính, trạng thái điên rồ và nhiều chủ đề cấm kỵ khác vốn bị nước Nhật bỏ quên nhiều thế kỷ. Và khác với quan niệm thông thường cho rằng “vũ đạo không thể tách lìa khỏi âm nhạc”, thì Butoh có thể múa mà không cần nhạc, hoặc đôi khi không cần khớp với tiết tấu của nhạc.  

Butoh ngày nay được khắp thế giới biết đến, nhiều đoàn múa Butoh luôn tạo ra tác phẩm mới, ở Hoa Kỳ, Canada, châu Âu, Mexico, Australia, Nam Mỹ và cả châu Phi. Ở Tokyo khán giả có thể xem Butoh hàng đêm. Các vũ công khắp thế giới đã bổ sung thêm phong cách văn hóa của họ vào Butoh, chẳng hạn ở Mexico, Diego Pinon, học trò của Yoshito Ohno, đã tạo ra loại hình Butoh kết hợp với vũ điệu nghi lễ Mexicano. Hoặc nghệ sĩ biên đạo múa Ea Sola Thủy, tác giả của Hạn hán và cơn mưa, cũng xuất thân và từng “ăn nằm” với Butoh, và người nghệ sĩ này đã rút ra một loại ngôn ngữ vũ đạo riêng của mình như Hijikata đã từng khai triển.

Tatsumi Hijikata luôn tin rằng “Butoh vẫn còn chưa đạt được”, vì Butoh là một tiến trình không có kết thúc. Tất cả vũ đạo là vô cùng, không thể nào dứt, vì nó còn mãi đánh thức cái “đời sống thuần túy” vốn còn ngủ say trong thân thể của mỗi người.

Hà Vũ Trọng (theo Kyoto Journal)
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm