Bài 1: Những suy nghĩ rời, khởi đi từ một bài thơ

17/05/2010 07:02 GMT+7 | Đọc - Xem


Thơ Lưu Quang Vũ, nhìn từ ngày hôm nay

 Lưu Quang Vũ năm 1972.
Ảnh: Gia đình nhà thơ cung cấp

“Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Lưu Quang Vũ đã sống và làm việc hết mình như một bó đuốc rừng rực cháy. Những gì mà Lưu Quang Vũ đã làm được và để lại cho cuộc đời đủ khiến ông “sừng sững như một trái núi, một lực sĩ không đối thủ”. Với Lưu Quang Vũ, cánh cửa đi vào tương lai đã đóng lại vào ngày 29/8/1988. Đang ở vào giai đoạn chín trong việc khám phá đời sống và sáng tạo nghệ thuật, Lưu Quang Vũ đã đột ngột ra đi, để lại bao dự định còn dang dở…” (Lưu Khánh Thơ)

Với ý định đưa ra những cái nhìn mới về Lưu Quang Vũ và thơ ông, 22 năm sau khi ông cùng nhà thơ Xuân Quỳnh và con trai Lưu Quỳnh Thơ tử nạn, TT&VH Cuối tuần mời những người trước đây chưa từng hoặc rất ít nói về thơ Lưu Quang Vũ lên tiếng. Trần Hoàng Bách, người bạn thân thiết của Lưu Quang Vũ, nhớ về ông qua một bài viết ngắn; nhà thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tùng (tác giả tập sách trò chuyện với các nhà thơ Thơ đến từ đâu mới in gần đây) bình luận thơ Lưu Quang Vũ từ góc độ một người sinh sống ở hải ngoại; còn nhà thơ Khánh Phương thuộc thế hệ sau nhưng đặc biệt quan tâm đến thơ Lưu Quang Vũ và cũng là người tham gia biên tập tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi vừa được công ty Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn ấn hành.

Ngày nay nhìn lại, nhà thơ của mây trắng (Thơ tôi là mây trắng của đời tôi) có một vị trí như thế nào trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam? Trân trọng mời bạn đọc khám phá điều này trong chuyên đề Thơ Lưu Quang Vũ, nhìn từ ngày hôm nay.

Tổ chức chuyên đề: CAO VIỆT DŨNG


Những suy nghĩ rời, khởi đi từ một bài thơ

(TT&VH Cuối tuần) - Anh Cao Việt Dũng hỏi tôi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?

Theo tôi, có lẽ người đọc hải ngoại hiện nay ít biết về anh. Nhưng tôi có một cơ hội cuối những năm 1970, khi còn ở trong nước, được một người bạn mới quen đọc cho nghe một bài thơ lạ, của một tác giả lúc ấy tôi không biết là ai. Vừa đi vừa đọc. Xong, cả hai ngồi xuống bên vệ đường, tôi nhờ anh đọc lại lần nữa. Không có giấy bút để ghi, anh đọc lần thứ ba chậm và kỹ, cho tôi nhé. 10 năm sau ở hải ngoại tôi vẫn thuộc bài thơ rất dài này; nhiều năm sau nữa thì bắt đầu quên dần từng câu, từng đoạn.

Một bài thơ có thể đi xa, vượt ra ngoài trang giấy, cư ngụ nơi chốn khác. Nó sống ở đâu? Ở ngôi nhà của mình, trong tâm hồn người đọc. Điều lạ là sau khi quên một đoạn, thì hôm sau hay tháng sau tôi lại nhớ đến đoạn ấy, nhớ chính xác, nhưng lại quên đoạn khác. Tôi và nó, bài thơ ấy, cứ đuổi nhau quanh trục thời gian. Từ đó đến nay, tôi vẫn chưa bao giờ được đọc nó bằng chữ in, nhưng dĩ nhiên lại có dịp biết thêm những bài thơ khác của anh nữa, nơi này nơi khác.

Cái gì trong thơ Lưu Quang Vũ ám ảnh tôi nhiều hơn cả? Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển/Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông/Những con tàu mười phương/Những thủy thủ Cuba da đỏ hồng như lửa/Thủy thủ Hy Lạp vầng trán đẹp u buồn/Người Ý phóng túng và có duyên (Viết cho em từ cửa biển).

Sự ra đi. Những chân trời

Rất sớm, từ những năm 1970 thơ anh đã mới: dùng rất nhiều các hình ảnh, các âm thanh, các sờ mó, các cảm giác: Anh ngồi trên đống bao hàng/Giữa những người cười nói rì rầm/Những thủy thủ nồng hơi rượu chát/Tiếng than vãn, tiếng nỉ non, tiếng đùa, tiếng khóc/Và khói bay, khói bay (Bài đã dẫn).

Ngôn ngữ Lưu Quang Vũ tài hoa nhưng vẫn gần cái lõi của thơ là sự giản dị. Đối với tôi, có một điều gì không giải thích được trong sự giản dị của anh, có lẽ là sự tội nghiệp quyến rũ: Em con tàu về cảng mưa đêm/Ngã tư ngô đồng rụng lá/Con sông mờ thân cầu đổ (Trích theo Khánh Phương). Như thế là vừa đẹp. Chỉ cần tài hoa quá tay lên một chút nữa, anh sẽ trở thành người sử dụng tu từ xuất sắc, nhưng bắt đầu xa rời chỗ cố hữu. Em là bờ cau xanh/Là quả vườn nhà là chim tu hú/Em yêu chốn này không (Bài đã dẫn). Lùi lại một chút nữa, thơ anh trở thành thương cảm, là điều tối kỵ.

Em đừng thương anh nữa/Anh đi lủi thủi trên đường (Không đề III). Hai câu đó không nên đặt chung với nhau. Lưu Quang Vũ không tránh được cách viết “hiện thực” mà vào thời ấy dĩ nhiên là phương pháp chính thống và phổ biến. Nhưng ngay trên lối mòn anh vẫn có những suy nghĩ sát với cuộc đời, những quan sát xúc động: Đám người bán máu xanh gầy/Co ro chờ ngoài cổng viện (Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa).

Thành tựu của anh trong khuynh hướng này là bài thơ Tiếng Việt, được đăng nhiều trên các trang viết về anh, là bài thơ Lưu Quang Vũ duy nhất có mặt trong tuyển tập Thơ Việt Nam thế kỷ XX, Thơ trữ tình, NXB Giáo dục, 2005. Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm/Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về. Hai câu đầu tiên cảm động, đẹp, đúng là ngôn ngữ của anh. Nhưng ở câu thứ ba: Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm anh đã bắt đầu không chống được sự cám dỗ, như cách mà ta dễ thấy ở hầu hết các nhà thơ hiện nay, và đưa quá nhiều hình ảnh vào. Tôi ngại rằng anh sẽ không có cách nào thoát khỏi chúng. Quả nhiên: Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre. Một câu thơ làm hỏng cả đoạn. Mà đó có lẽ là đoạn hay nhất trong bài thơ dài gồm 12 đoạn, 48 câu.

Bạn an tâm. Đó không phải là bài thơ tiêu biểu của Lưu Quang Vũ, cũng không phải là bài hay nhất của anh: anh đi xa hơn chúng rất nhiều, không những trong suy tưởng sâu của anh về tình yêu, về đất nước, con người, trong sự tiếp cận đầy dũng cảm hiếm có của anh đối với sự thật, mà còn cả trong khuynh hướng cách tân ngôn ngữ càng về sau càng mạnh.

Tôi quý điều gì nhất ở thơ Lưu Quang Vũ? Trong thơ, anh bày tỏ rất sớm lòng khao khát tự do: Sao em chẳng cùng anh ra cửa biển/Mùa thu cao mây trắng xóa mênh mông. Không phải chỉ là một bài thơ tình. Tự do của Lưu Quang Vũ không phải là tự do có ý nghĩa chính trị; nó cá nhân hơn và vì vậy mà tuyệt đối hơn. Đúng vậy, nếu anh còn sống đến ngày nay, tôi chắc rằng thơ Lưu Quang Vũ sẽ là sự thách thức đối với các nhà phê bình, đối với các giá trị thẩm mỹ cũ. Khi đọc lại thơ ca miền Bắc cùng thời, tôi có ấn tượng rằng hình như Lưu Quang Vũ là nhà thơ trẻ rất hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, vào thời điểm ấy dám đi ngược lại các quy ước, thể hiện ý chí tự do, rẽ sang một lối hoàn toàn khác từ nền thơ đại chúng. Đi xa đến nỗi cũng còn lâu nhiều nhà thơ thuộc thế hệ của anh có thể theo kịp.

Trước hết, sớm muộn gì anh cũng sẽ vượt qua được thói quen sáo rỗng: Con ngựa gầy phiêu bạt thảo nguyên xa (Thơ tình viết cho một người đàn bà không có tên). Vượt qua được không khí tù hãm, nhìn thẳng vào cô đơn, tự làm mới vết thương của mình và do đó làm mới niềm hy vọng đối với ngôn ngữ: Như ngôi sao trên cột buồm trơ trọi/Anh nhìn vào bóng tối/Con tàu đêm nay đi về đâu/Nhớ đôi môi xót đau (Bài đã dẫn).

Sau bao nhiêu người thương tiếc anh, tôi có cần phải than thở thêm rằng anh mất đi khi tuổi đời còn quá trẻ? Chúng ta ra đi chiến tranh mùa đông/ Ta kịp biết gì đâu (Những bông hoa không chết) Người ta nói người đọc cũng chỉ mới kịp biết đến anh một nửa, một góc, hay một phần mười. Nhưng cái một phần mười ấy chúng ta cũng đã biết đầy đủ chưa?

Bài 2: Vũ đi mang theo gì?
Nguyễn Đức Tùng

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm