Bài 1: Olympic - Những điều cần biết

15/07/2008 09:52 GMT+7 | Olympic 2008

Olympic (hay Thế vận hội Thể thao Olympic) là cuộc tranh tài trong nhiều môn thể thao giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Đây là một đại hội thể thao không chỉ là đua sức thể lực mà còn mang ý nghĩa biểu trưng cho tinh thần đoàn kết, hòa bình của toàn nhân loại.

Olympic bắt nguồn từ các cuộc thi đấu thể thao thời Hy Lạp cổ đại. Và Olympic hiện đại được Nam tước người Pháp Pierre Fredy de Coubertin tổ chức lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 19. Đại hội Thể thao Olympic, thường được gọi là Olympic Mùa hè, được diễn ra cứ bốn năm một lần từ năm 1896, trừ những năm diễn ra chiến tranh thế giới.

Olympic Mùa đông được thành lập vào năm 1924 cho những môn thể thao mùa đông. Mới đầu nó được tổ chức cùng năm với Olympic mùa hè, nhưng từ năm 1994, Olympic mùa đông và Olympic mùa hè diễn ra xen kẽ nhau hai năm một lần (vào các năm chẵn).

Pierre de Coubertin
 
 
Ủy ban Olympic quốc tế

* Olympic được quản lý bởi Ủy ban Olympic quốc tế (viết tắt là IOC), tổng hành dinh đặt tại Lausanne, Thụy Sĩ. IOC ra đời tại Paris năm 1894 như một ủy ban độc lập và tự lựa chọn các thành viên cho mình (tuy nhiên để bắt đầu tiến hành, Coubertin đã tự chọn cho mình 15 thành viên). Hầu hết các thành viên được bầu chọn vào IOC là những cá nhân, đơn vị đã phục vụ trong NOCs (National Olympic Committees – Các ủy ban Olympic quốc gia ) tại chính quốc gia của thành viên đó.

* Những thành viên đầu tiên của IOC là tất cả các các thành viên châu Âu và châu Mỹ với một nước ngoại lệ là New Zealand (châu Úc). Thành viên châu Á đầu tiên gia nhập ủy ban là vào năm 1908 và châu Phi là 1910. Các thành viên của IOC phải nghỉ hưu vào tuổi 80 trừ phi họ được bầu chọn trước năm 1966.

* Chủ tịch IOC (được chọn từ các thành viên của IOC) được cộng tác bởi một ban lãnh đạo, nhiều phó chủ tịch và một số người của hội đồng IOC. Chủ tịch đầu tiên của IOC là ông Demetrius Vikélas, người Hy Lạp (làm việc 1894 -1896). Các chủ tịch tiếp theo là Count Henri de Baillet-Latour của Bỉ (1925-1942), J. Sigfrid Edström của Thụy Điển (1946-1952), Avery Brundage của Mỹ (1952-1972), Michael Morris, Lord Killanin của Ireland (1972-1980) và Juan Antonio Samaranch của Tây Ban Nha (1980- ).

Chọn thành phố đăng cai

Để đăng cai Olympic, một thành phố phải đệ trình bản kế hoạch lên IOC. Sau khi tất cả các bản kế hoạch được đưa lên, IOC tiến hành bỏ phiếu. Nếu không có thành phố nào giành được nhiều phiếu trong lần bỏ phiếu đầu tiên thì thành phố ít phiếu nhất sẽ bị loại và tiếp tục bỏ phiếu cho đến khi chọn được mới thôi. Olympic được quyết định trước đó vài năm, nhờ vậy thành phố giành được quyền đăng cai có đủ thời gian để chuẩn bị.
 
Trong việc lựa chọn nơi tổ chức Olympic, IOC quyết định dựa trên một số nhân tố chủ yếu mà thành phố đó có hoặc hứa sẽ tạo những tiện nghi tốt nhất và hiệu quả. IOC cũng quyết định những phần nào trên thế giới chưa được quyền đăng cai Olympic.Thí dụ như, thành phố Tokyo, Nhật Bản (thuộc châu Á) đăng cai Olympic mùa hè năm 1964 thì sang năm 1968 tổ chức ở Mexico (thuộc Mỹ Latinh).

Một khi Olympic diễn ra ở đâu thì sẽ được ủy ban tổ chức địa phương ở đó tài trợ (những tổ chức này không phải là IOC hay NOC của nước chủ nhà). Điều này thường kết thúc với phần chia lợi nhuận từ bản quyền truyền hình Olympic, tiền từ các tập đoàn tài trợ, tiền bán vé, tiền quảng cáo và những nguồn tài trợ nhỏ khác chẳng hạn như những con tem bưu điện làm kỉ niệm hoặc tiền thu từ vé số quốc gia. Trong nhiều trường hợp cũng có sự giúp đỡ của chính quyền nước sở tại. 

Mặc dù nhiều thành phố giành được lợi nhuận từ Olympic, nhưng các kỳ Olympic cũng có thể bị lâm vào tình trạng thiếu hụt tài chính. Ví dụ như Montréal,Canada đã chi ra một lượng lớn tiền bạc để chuẩn bị cho Olympic mùa hè năm 1976, nhưng số tiền thu được lại thấp hơn dự kiến khiến thành phố phải chịu nhiều khoảng nợ lớn.

Năm 1999 ban lãnh đạo của IOC bắt đầu cải cách phương pháp lựa chọn các thành phố đăng cai Olympic. Các thay đổi xảy ra sau khi có phát hiện nhiều quan chức của IOC đã vi phạm lời thề trong hiến chương Olympic bởi họ bị cho là đã nhận những khoản chi trả bằng tiền mặt và những món quà “bồi dưỡng” bất chính từ các thành phố tranh cử quyền đăng cai Olympic. Các vi phạm đã xảy ra khi thành phố Salt Lake, Utah thắng lợi tại Olympic mùa đông 2002. Và thành phố này vẫn được quyền đăng cai nhưng nhiều quan chức của Ủy ban tổ chức địa phương đã từ chức và nhiều người của IOC đã bị đuổi trong vụ bê bối.

Các VĐV và tư cách tham dự

Mặc dù Hiến chương Olympic, luật chính thức của Ủy ban Olympic, tuyên bố rằng Olympic là cuộc thi giữa các cá nhân và không phải là giữa các quốc gia nhưng IOC lại phân công các NOC có nhiệm vụ tuyển chọn riêng các đội tuyển Olympic quốc gia. Trong hầu hết các trường hợp, NOC làm điều này để nắm được các VĐV đã trải qua kiểm tra để được thi đấu tại Olympic hoặc để chọn những VĐV dựa trên những thành tích mà họ đã đạt được trước đó.

Từ khi bắt đầu Olympic đến nay, các VĐV nữ không chuyên của mọi tôn giáo, dân tộc đều có đủ tư cách tham dự. Mặc dù Coubertin phản đối sự tham gia Olympic của phụ nữ và không một phụ nữ nào thi đấu trong năm 1896, nhưng một số nhỏ VĐV môn đánh gôn và quần vợt đã được thi đấu tại Olympic năm 1900.

Các VĐV nữ trong môn bơi lội và lặn được phép thi đấu tại Olympic năm 1912, còn những môn như thể dục và điền kinh thì mãi đến năm 1928 họ mới được tham gia. Kể từ đó các môn thể thao Olympic của nữ phát triển đáng kể và hiện nay số lượng nữ VĐV trong một đội đã chiếm đến khoảng phân nửa trừ một số đội đến từ các nước Ả-Rập hồi giáo.

Coubertin và tổ chức IOC dự tính từ ban đầu là Olympic chỉ dành cho những VĐV nghiệp dư. Tính chất không chuyên được xác định bởi sự tôn trọng triệt để với luật không chuyên, một luật lệ có từ thế kỷ 19 làm nền tảng để ngăn không cho các VĐV chuyên nghiệp tham gia trong các môn thể thao như bơi thuyền và quần vợt.

Bởi vì luật không chuyên ngăn cản các VĐV kiếm được bất kỳ chi phí nào từ các hoạt động có liên quan đến thể thao nên các VĐV thuộc tầng lớp bình dân khó mà đủ khả năng vừa kiếm sống vừa tập luyện để thi đấu. Tuy nhiên các luật lệ của Olympic về tính không chuyên vẫn là nguyên nhân của nhiều tranh cãi trong nhiều năm.

Những câu hỏi đã được đưa ra như một VĐV không chuyên có thể được đài thọ chi phí cho chuyến đi thi đấu, được đền bù chi phí thời gian mất việc, được thuê để dạy các môn thể thao hay không. Và chúng luôn được IOC (tổ chức đứng đầu trong việc xác định tính chuyên nghiệp trong các một thể thao khác) giải quyết một cách thỏa đáng.

Năm 1983, đa số các thành viên của IOC đều chấp nhận hầu hết các VĐV Olympic thi đấu một cách chuyên nghiệp với ý muốn rằng các môn thể thao là hoạt động chính của họ. Sau đó IOC đã hỏi lại mỗi ISF để xác định tính tư cách của chính môn thể thao và qua thập niên sau thì gần như tất cả các ISF đã bãi bỏ sự khác biệt giữa các vân động viên nghiệp dư và các vận động chuyên nghiệp, còn gọi là Olympic mở. Một trong những ví dụ điển hình của sự thay đổi là vào năm 1992 khi các VĐV chuyên nghiệp đến từ Liên đoàn bóng rổ quốc gia (NBA – National Basketball Association) đã được phép thi đấu tại Olympic mùa hè Barcelona, Tây Ban Nha.

Những nghi thức

Olympic luôn có những nghi thức, phần nhiều trong số đó thể hiện chủ đề tình hữu nghị và hợp tác hòa bình giữa các quốc gia.

Lễ khai mạc Olympic luôn luôn có cuộc diễu hành của các đội tuyển đến từ mỗi quốc gia tham dự tại sân vận động chính. Đội Hy Lạp luôn là đội đi đầu để kỉ niệm nguồn gốc xa xưa của Olympic và đội nước chủ nhà luôn là đội đi sau chót.

Nghi lễ mở đầu là màn trình diễn tái hiện, hư cấu về Olympic qua thời gian trong một khung cảnh phức tạp và hoành tráng với âm nhạc và lời nói. Một trong những nghi lễ quan trọng là cuộc chạy rước đuốc và lễ rước đuốc Olyimpic. Ngọn lửa Olympic tượng trưng cho sự chuyển giao những ý nghĩa cao đẹp từ Olympic Hy Lạp cổ đại đến thế giới hiện đại.
 
Ngọn đuốc Olympic được thắp sáng lần đầu tại Olympic mùa hè năm 1936. Trong cuộc chạy rước đuốc, ngọn lửa được thắp sáng tại thành phố Olympia, Hy Lạp và từ đó nó được nhiều người chạy bộ (trừ đường sông, biển) mang đi trải qua nhiều tuần lễ hoặc nhiều tháng trời để đến thành phố nước chủ nhà. Sau khi người rước đuốc cuối cùng đã thắp ngọn lửa Olympic lên ngọn đuốc chính tại sân vận động, người đứng đầu của nước chủ nhà tuyên bố Olympic bắt đầu và những con chim bồ câu được thả ra để tượng trưng cho niềm hi vọng thế giới hòa bình.
 
Rước cờ Olympic tại Thế vận hội Athen 2004
 
Hai nghi thức đổi mới quan trọng khác đã xuất hiện sớm tại Olympic Antwerp, Bỉ năm 1920 đó là một lá cờ Olympic với năm vòng tròn có năm màu khác nhau trên nền trắng. Năm chiếc vòng tròn tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các quốc gia năm châu: châu Phi, châu Mỹ, châu Á, châu Úc và châu Âu. Và kế đến là sự ra đời của nghi thức đọc lời thề Olympic, được đọc bởi một thành viên của đội chủ nhà. Lời thề xác nhận cam kết của các VĐV về tinh thần thể thao cao thượng trong thi đấu.
 
Nghi lễ trao huy chương cũng là một phần quan trọng của Olympic. Sau mỗi môn thi đấu cá nhân tại Olympic, các huy chương được tặng thưởng có 3 giải: nhất, nhì và ba cho 3 người có thành tích cao nhất. Lễ trao huy chương diễn ra sau mỗi trận đấu chung kết của từng môn, các VĐV thắng cuộc bước lên bục để nhận huy chương vàng (thực ra là huy chương mạ vàng), huy chương bạc (mạ bạc), và huy chương đồng, kế đến quốc kỳ các nước của họ được kéo lên trong tiếng nhạc quốc ca nghiêm trang.
 
Một vài nhà phê bình đề nghị rằng vì những kỉ niệm chương dường như trái với tinh thần quốc tế mà IOC đã công bố. Những biểu tượng quốc gia nên thay bằng lá cờ Olyimpic và nhạc là bài hát chính thức của Olympic. Ban đầu có một cuộc diễu hành khác của các quốc gia vào buổi lễ cuối cùng của Olympic.Tuy nhiên tại Olympic mùa hè vào năm 1956 tại Melbourne, Úc, các VĐV đã tách khỏi hàng ngũ và đi lẫn vào nhau để kỉ niệm Olympic. Truyền thống này đã được tiếp tục tại các kỳ Olympic sau. Sau khi các VĐV đã vào hết trong sân vận động Olympic tại buổi lễ, chủ tịch của IOC hẹn gặp lại các VĐV và khán giả tại Olympic lần sau. Sau đó, chủ tịch IOC tuyên bố kết thúc Olympic và ngọn đuốc Olympic được tạm tắt.

Theo Wikipedia

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm