18/08/2025 07:58 GMT+7 | Văn hoá
Thâm Tâm (18/8/1950-18/8/2025) là nhà thơ-chiến sĩ, một nhà báo-liệt sĩ đã để lại một di sản lớn cho nền văn học Việt Nam. Thâm Tâm sớm bước vào con đường văn chương, mất khi còn rất trẻ nhưng đã kịp để lại cho đời nhiều tác phẩm lớn nhờ hành trình dấn thân và đặt sứ mệnh của người viết đến tận cùng.
Bên cạnh thơ ca, Thâm Tâm còn có một gia tài văn xuôi mà nhờ đó chúng ta một lần nữa khẳng định rõ nét hơn việc tôn vinh tài năng, tâm huyết và khát vọng sáng tạo của ông. Như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều khẳng định:“Chỉ sống đến 33 tuổi giữa một thời đại đầy khó khăn và đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh, nhà thơ Thâm Tâm đã để lại một di sản lớn cho nền văn học Việt Nam".
Hành trình sáng tác của nhà thơ, nhà văn Thâm Tâm
Nhà thơ Thâm Tâm tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12/5/1917, tại tỉnh Hải Dương (nay là Hải Phòng), trong một gia đình nhà nho nghèo và đông con, học hết tiểu học, ông phải ở nhà giúp gia đình đóng sách và nấu bánh kẹo. Năm 1938, chàng nghệ sĩ lên Hà Nội cùng gia đình. Trong cảnh gia đình khó khăn, Thâm Tâm phải kiếm sống bằng nghề vẽ tranh Bờ Hồ, viết báo, làm đồ gốm và bắt đầu làm thơ.
Từ những năm 1940, ông tham gia viết báo, viết văn và thường được đăng tải trên báo Bắc Hà, Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ năm, nhà sách Tân dân và Truyền bá quốc ngữ… Ông từng thử sức trên nhiều thể loại thơ, truyện, kịch, vẽ và viết cho loạt sách Truyền bá, nhưng thành công hơn cả vẫn là thơ. Thơ Thâm Tâm có nhiều giọng điệu, khi buồn da diết, khi trầm hùng, bi tráng, khi reo vui…
Nhà thơ, nhà báo Thâm Tâm (hàng đầu, bên phải) cùng đồng đội những ngày làm Báo Vệ quốc quân ở chiến khu Việt Bắc. Ảnh tư liệu
Thâm Tâm bén duyên với những bài thơ làm theo thể Hành - một lối thơ cổ của Trung Quốc gồm: Can trường hành, Vọng nhân hành và nổi bật là Tống biệt hành.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thâm Tâm tham gia văn nghệ trong Hội cứu quốc và tham gia ban kịch cùng người bạn thân là Trần Huyền Trân.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm, Thâm Tâm tham gia Văn hóa Cứu quốc, ở trong Ban biên tập báo Tiên Phong (1945-1946), ông biên tập cho báo Tiền phong với công việc làm bích báo, vẽ áp phích, viết kịch, như: 19/8, Lối sống, Ðầu quân vào Nam (1945), Người thợ, Lá cờ máu (1946).
Tháng 2/1947, ông gia nhập quân đội, trở thành là người lính cầm bút trong Tòa soạn Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân). Với tư cách là phóng viên mặt trận Báo Vệ Quốc quân, Thâm Tâm đã có mặt ở hầu hết các chiến dịch lớn, các trận đánh quan trọng ở Việt Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Liên khu III. Với tư cách là thư ký tòa soạn của Báo Vệ Quốc quân, Thâm Tâm luôn là một người làm báo mẫn cán và sáng tạo. Bài thơ mà các nhà nghiên cứu cho là nổi bật về tinh thần những người bộ đội là Chiều mưa đường số 5 (1946). Thời kỳ này ông viết truyện Ðại đội Kim Sơn (1948), tiểu luận Văn thơ bộ đội (1948).
Tiếc rằng cống hiến của ông chỉ kịp có vậy! Ngày 18/8/1950, trên đường theo bộ đội chuẩn bị cho chiến dịch, Thâm Tâm đã mắc trọng bệnh và đột ngột nằm lại vĩnh viễn dưới chân đèo Mã Phục, cách thị xã Cao Bằng chừng hai mươi cây số - nơi Báo Vệ Quốc quân đặt trụ sở dã chiến. Năm ấy, nhà thơ mới 33 tuổi.
Thâm Tâm không chỉ “Tống biệt hành”
Trong số các bài thơ mà Thâm Tâm sáng tác, bài thơ Tống biệt hành là bài thơ nổi tiếng nhất và làm lên tên tuổi của ông trong làng thơ ca Việt Nam. Tháng 11/1941, khi làm quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942), Hoài Thanh chỉ chọn duy nhất một bài của Thâm Tâm, đó là bài Tống biệt hành. Mỗi lần nói đến Thâm Tâm là người đọc nghĩ ngay đến bài thơ này (và ngược lại). Bài thơ đã làm sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc... Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại. Bài thơ ấy đến nay vẫn làm cho những ai đã học văn học, đã yêu thơ, đã làm thơ đều biết. Ông đã để lại những dấu ấn mà người làm văn học, người yêu mến văn học, báo chí Việt Nam không thể bỏ qua.
Nhà thơ Thâm Tâm, bìa tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy có in truyện ngắn của Thâm Tâm Người hủi ở làng Liêu và một số minh họa vẽ bìa Bắc Hà tuần báo của Thâm Tâm. Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
Trước Cách mạng Tháng Tám, thơ Thâm Tâm không chỉ là những vần thơ nói về những cuộc lên đường, ra đi, đưa tiễn như: Tráng ca, Can trường hành, Tống biệt hành, Vọng nhân hành... mà còn gắn liền với những giai thoại văn chương, “nghi án” văn chương “vô tiền khoáng hậu” mà cho đến nay, sau gần 80 năm vẫn chưa đi đến hồi kết. Đó là câu chuyện về các bài thơ: Hai sắc hoa ti gôn, Màu máu ti gôn và tác giả T.T.Kh. Đó còn là câu chuyện diễn ra ở làng Canh (ngoại ô Hà Nội) đêm rằm tháng Bảy âm lịch năm 1940 để sinh ra bài thơ liên ngâm có tên Ngô sơn vọng nguyệt giữa Thâm Tâm và 3 thi sĩ tài danh Nguyễn Bính, Trúc Khê và Trần Huyền Trân.
Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ, Thâm Tâm tòng quân lên Chiến khu Việt Bắc. Ở đó, ông đã sống những năm tháng vô cùng thiếu thốn, gian khổ và ác liệt nhưng cũng là những năm tháng đẹp đẽ nhất của đời ông. Cũng như Trần Đăng, Thôi Hữu, Hoàng Lộc, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Lạp và nhiều văn nghệ sĩ khác, Thâm Tâm đã sống cùng bộ đội và viết vì bộ đội, vì kháng chiến.
Ngoài sáng tác thơ, Thâm Tâm còn viết truyện ngắn, truyện vừa và kịch. Cũng như nhiều thanh niên, học sinh Hà Nội thời bấy giờ, trong cảnh nước mất nhà tan, anh thanh niên Nguyễn Tuấn Trình luôn khát khao yêu thương, khát khao một cuộc dấn thân, một cuộc lên đường. Khao khát ấy đã được ông thể hiện không chỉ trong thơ mà cả trong văn, trong kịch. Đọc lại những tờ báo cũ như: Tiểu thuyết thứ bảy, Truyền bá, Tiểu thuyết thứ năm... xuất bản những năm trước Cách mạng Tháng Tám thấy rải rác có nhiều bài của Thâm Tâm (ký tên Tuấn Trình). Như trên tờ Tiểu thuyết thứ năm, số 6 ra ngày 10/11/1938 ở một bài báo có nhan đề “Hai trái hồng” ký tên Tuấn Trình, ông viết: “Vì chưng tâm hồn những lữ khách đã dày dạn lắm rồi như một trái cây mùa chín tới. Quả đã hết xanh; những ngày thơ ngây, hồn nhiên cũng hết. Hôm nay, chúng ta lên đường và trái tim đã chín không bao giờ chín nữa”.
Mặc dù Thâm Tâm sáng tác không nhiều, nhưng những bài thơ và những truyện ngắn của ông sẽ còn mãi trong lòng đông đảo bạn đọc nhiều thế hệ.
Để vinh danh những cống hiến cho sự nghiệp văn học nghệ thuật và đóng góp hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, tại Hải Dương (nay là Hải Phòng) - nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên có con đường mang tên Nguyễn Tuấn Trình (Thâm Tâm) và Hà Nội - nơi ông trưởng thành và bắt đầu hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, có con đường mang tên Thâm Tâm.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất