40 năm Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc: Người lính gác cầu năm xưa

16/02/2019 11:23 GMT+7 | Thế giới

(Thethaovanhoa.vn) - Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân và dân ta đã trôi qua 40 năm nhưng ký ức về sự hy sinh anh dũng, lòng quả cảm của những người đồng chí, đồng đội... vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí của ông Tao Văn Nó, người lính gác cầu Việt - Trung năm xưa.

40 năm Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc: Nén hương tháng Hai

40 năm Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc: Nén hương tháng Hai

Có khát vọng thẳm sâu trong mỗi người dân Việt Nam, đó là Hòa Bình. Khát vọng ấy càng cháy bỏng nơi biên cương, trong trái tim biết bao thế hệ đánh đổi xương máu để giành, giữ từng tấc đất thiêng liêng của đất nước qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc.

Cầu Việt - Trung là cây cầu bắc qua suối Nậm Cúm, nối cửa khẩu Ma Lù Thàng, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu (Việt Nam) với cửa khẩu Kim Thủy Hà, huyện Kim Bình, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Đây là một trong những vị trí trọng điểm mà 40 năm về trước, quân xâm lược đã ồ ạt tràn qua biên giới nước ta.

Trong căn nhà gỗ 3 gian ở bản Hon, xã Bản Hon, huyện Tam Đường (Lai Châu), ông Tao Văn Nó, người dân tộc Lự kể cho chúng tôi nghe về những ngày đêm chiến đấu ác liệt của ông và đồng đội tại cây cầu Việt - Trung. Ông cho biết, tháng 5/1976, ông nhập ngũ. Sau khi tham gia huấn luyện, ông được điều về công tác tại Đồn 33 (nay là Đồn Biên phòng Cửa khẩu Ma Lù Thàng, huyện Phong Thổ).

Tại Đồn 33, chiến sĩ Tao Văn Nó được phân công làm Tiểu đội phó Tiểu đội canh gác bảo vệ đầu cầu Việt - Trung gồm 12 cán bộ, chiến sĩ. Vào thời điểm tháng 6 - 7/1978, khu vực biên giới đã có những căng thẳng nhất định, địch đã nhiều lần có những hành động khiêu khích, ban đêm địch thường đột nhập vào đơn vị để quấy rối. Khi Tiểu đội của chiến sĩ Nó ngăn cản và kháng cự, địch đã dùng súng bắn trả, làm một số chiến sĩ bị thương.

Chú thích ảnh
Binh nhất Tao Văn Nó với Bằng khen của Hội Cựu chiến binh tỉnh Lai Châu trao tặng. Ảnh: TTXVN

Khoảng 6 giờ  ngày 17/2/1979, trong lúc đang đứng gác, đồng đội của ông vẫn đang ngủ, một “cơn mưa” pháo từ bên kia biên giới trút sang đã phá tan không gian yên tĩnh của buổi sáng sớm. Ông Tao Văn Nó đã kịp thời thông báo để các đồng đội trong Tiểu đội vào vị trí chiến đấu. Sau những “cơn mưa” pháo, hàng ngàn quân địch được trang bị đầy đủ vũ khí ồ ạt tiến sang.

Ông Tao Văn Nó nhớ lại: Thời điểm đó, tương quan lực lượng giữa ta và địch chênh lệch quá lớn. Trước tình hình đó, Chỉ huy Đồn 33 đã lệnh cho Tiểu đội của ông rút quân để đảm bảo an toàn. Trong lúc “mưa bom bão đạn”, các chiến sĩ của Tiểu đội bị mất liên lạc, không nhận được lệnh rút quân. Do đó, các chiến sĩ vẫn kiên cường bám trụ và đánh trả quyết liệt với quân địch.

Đến khoảng 17 giờ ngày 17/2/1979, quân địch tràn sang mỗi lúc một đông, pháo nổ ầm ầm. Các đồng chí trong Tiểu đội của ông Nó ai cũng hết đạn. Các chiến sĩ đành tự tản ra để rút vào rừng lánh nạn. Trong lúc tìm cách rút vào rừng, chiến sĩ Tao Văn Nó đã lọt vào vòng vây của địch.

Vào lúc nguy hiểm tưởng chừng như không thể sống để quay về nữa, ông Nó đã nhanh trí nghĩ ra một kế để thoát thân. Ông đã hét lên bằng tiếng Quan Hỏa “Tất cả anh em, các đồng chí xem đằng trước, đằng sau, nếu đằng trước đúng quân địch tất cả chạy lên đằng trước đuổi quân địch đi”. Quân địch thấy thế ồ ạt chạy về phía trước, còn chiến sĩ Tao Văn Nó từ từ lùi lại phía sau và chạy vào rừng.

"Trong 1 ngày kiên cường chiến đấu với quân địch, 8 đồng đội của tôi đã anh dũng hi sinh, mãi mãi nằm lại nơi chiến trường”, giọng nói như nghẹn lại, đôi mắt rưng rưng, ông Tao Văn Nó ngậm ngùi nhớ lại.

Ngày 18/2/1979, trong lúc đang trốn ở trong rừng vừa đi tìm đồng đội vừa chờ quân tiếp viện đến, chiến sĩ Tao Văn Nó trúng phải mìn của địch và bị mảnh vỡ của mìn găm vào chân. Sợ bị địch phát hiện, ban ngày ông trốn vào bụi cây, đến tối mới tìm đường thoát ra khỏi rừng.

Đến ngày 20/2/1979, sau khi bơi qua sông và lên được đường lớn, ông Nó đã gặp một chiếc xe tiếp viện từ Lai Châu lên, ông vội kêu lên “Các đồng chí ơi, cứu tôi với, tôi bị thương...”.

Sau đó, ông Nó được đưa về Huyện đội Phong Thổ (nay là Ban Chỉ huy Quân sự huyện Phong Thổ) và được đưa đi điều trị vết thương. Do điều kiện khó khăn lúc đó, vết thương của ông chỉ được chữa lành ngoài da còn mảnh mìn vẫn nằm trong người.

Sau khi được đưa đi điều trị 1 tháng, ông Nó tiếp tục quay lại Đồn 33 công tác. Đến tháng 5/1982, ông xuất ngũ. Mang theo mảnh đạn trong người trở về địa phương, mỗi khi trái nắng trở trời, chân của ông lại đau nhức.

Thế nhưng với phẩm chất của anh Bộ đội cụ Hồ không khuất phục trước bất kỳ khó khăn nào, ngoài việc tích cực tham gia lao động, sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, ông Nó còn thường xuyên hỗ trợ, hướng dẫn người dân trong bản kỹ thuật và kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo.

Cùng với đó, ông tích cực tham gia các công tác xã hội tại địa phương, thường xuyên nhắc nhở con cháu luôn ghi nhớ những trang sử hào hùng của cha ông; khuyên dạy con cháu tập trung phát triển kinh tế, không sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, ma túy...

Với sự mưu trí, lòng dũng cảm và những chiến công đã lập được trong Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, những thành tích mà trong công tác xã hội tại địa phương, ông Tao Văn Nó đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba; các cấp, các ngành của tỉnh Lai Châu tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen.

Trước khi chia tay, ông Tao Văn Nó chia sẻ, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của nhiều đồng đội và đã để lại cho ông nhiều nỗi đau về thể chất cũng như tinh thần. Nhưng với tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, ông mong nhân dân hai nước Việt - Trung luôn được sống trong hòa bình, cùng nhau hợp tác để phát triển kinh tế…

Tin, ảnh: Công Tuyên/TTXVN

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm