Chợ phiên nơi làng xã

03/06/2012 16:30 GMT+7 | Văn hoá

(TT&VH) - Cuốn Những người săn máu của Le Pichon, (Bulletin des Amis du vieux Hué, 4/1938) cho thấy, vào đầu thế kỷ 20, người dân Katu sống ở tình trạng bán khai, tuy không có chợ, hay buôn bán, nhưng vẫn tiến hành trao đổi hàng hóa ở một địa điểm nhất định với những người dân miền xuôi.

1. Người dân Bắc bộ thời phong kiến sống trong các làng xã đã từ lâu hình thành những chợ phiên nhất định. Có thể kể đến chợ làng, chợ tổng, chợ huyện, chợ tỉnh và một cái chợ lớn trung tâm đó chính là Hà Nội, được gọi là Kẻ Chợ. Chữ “Kẻ” có nghĩa là vùng đất, miền đất. Khái niệm Kẻ Chợ cũng đồng nghĩa với sự văn minh nào đó, nên Kẻ Chợ còn được gọi là Tràng An.


Chợ dân tộc vùng Cán Cấu, Bắc Hà, Lào Cai. Ảnh Nguyễn Anh Tuấn.

Khái niệm thành thị tuy có, nhưng không phổ biến, mà người ta hay dùng khái niệm đô thị, tức là đô thành (thành lũy đồn trú của vua quan) bên cạnh cái chợ. Thành của Trung Quốc vốn rất lớn, khi có chiến tranh, dân bên ngoài vào thành trú cả. Bình nhật thì người ta cũng sống trong thành, sáng sớm ra đồng làm ruộng, chiều tối trở về, tất nhiên cũng có người sống ngoài đồng nội, tức ngoài thành.

Thành trì Việt Nam nhỏ, người dân không sống trong thành, mà sống trong làng. Cái chợ ven thành là một trung tâm buôn bán, nó có thể có phiên lớn nhất định, nhưng thường ngày vẫn có hàng hóa giao dịch.

Sau cấp Kẻ Chợ, các chợ khác trong toàn quốc, chỉ họp theo phiên, tức là có ngày quy định nào đó trong một tháng có tính quy luật. Ví dụ mùng 2 và mùng 7, tức là một tháng sẽ có sáu phiên, 12 và 17, 22 và 27. Những hàng hóa quan trọng có tính đặc sản sẽ được bán trong phiên chợ.

2. Trên thực tế thì chợ lại được hình thành từ làng đi lên. Mỗi làng có một cái chợ nhỏ, có thể họp ngay đầu làng, sân đình, hoặc chỉ trên một bãi trống. Chợ làng thường họp từng ngày vào sáng sớm và chiều tối, vừa bán mua bằng tiền, vừa có thể trao đổi.

Những làng thuần nông nghiệp thì chợ làng không thường xuyên, mà đổi thành phiên, vì tính chất tự cung tự cấp cao. Những làng có nghề thủ công, thì chợ làng mang tính thường xuyên hơn, vì người làm thủ công chuyên nghiệp, không thể sản xuất các nông sản được nữa. Có những làng lớn, như ở Mông Phụ, Đường Lâm mỗi giáp có một điếm nhỏ, và một giếng chung, cũng đồng thời là một chợ nhỏ cung cấp hàng hóa tối thiểu cho giáp. Đây là trường hợp đặc biệt.


Chợ làng Đường Lâm ngày nay họp ở khoảng sân trước chùa Mía.

Song trong một làng, chợ chỉ có thể cung cấp ít lương thực thực phẩm và đồ đan. Nhu cầu của người nông dân tuy đơn giản, nhưng cũng nhiều hơn thế, các “chợ tổng” hình thành, tức là vài ba làng là một tổng, và có chợ riêng trên một bãi đất trống kề cận với những làng đó. Chợ tổng còn phục vụ cho những làng không thuộc về tổng đó, nhưng không xa đó, và người ta có thể nay đi chợ tổng này, mai đi chợ tổng kia.

Trong đơn vị hành chính thời Nguyễn, làng tương đương với một xã, từ ba đến bốn xã là một tổng, tùy theo. Các tổng trong một huyện, tỉnh có ngày chợ phiên khác nhau, để người ta có thể đi chợ khắp nơi mà không bị trùng. Ví dụ tổng này chợ phiên là mùng 2 và mùng 5, chợ tổng khác là mùng 3 và mùng 7. Sự phân chia các chợ phiên mang tính tự nhiên và nó phản ánh hệ âm lịch của người Việt có nguồn gốc từ lịch Mường, lúc đó người ta chưa biết đến tuần lễ 7 ngày như hiện nay, và một tháng được chia làm ba tuần, mỗi tuần 10 ngày, nên các chợ phiên sẽ có sáu ngày họp trong một tháng.

Việc thuận tiện trong giao thông đường thủy hơn là đường bộ, các làng và chợ thường hay gần sông, cho nên người ta có thể đi nhiều chợ trong tháng, đến các làng hai bên sông, hoàn toàn bằng thuyền. Hoặc đi gần có thể đi bộ theo triền đê rồi đi đò ngang qua bên kia sông đến một chợ khác.

3. Ở các vùng miền núi và giáp miền núi, chợ phiên lại có cách riêng, thường là trong hai ngày liền. Ví dụ hiện nay, chợ Lồ ở Cao Phong, Hòa Bình, họp vào thứ 4 và thứ 5, chợ Mai Châu, Hòa Bình họp vào thứ 7 và Chủ nhật. Ngày đầu là phiên phụ, còn chờ đợi nhiều người dân đi từ trên núi xuống, ngày sau là chính.

Xưa kia, các phương tiện giao thông hạn chế, người ta mất một ngày để đi đến chợ và phải ngủ qua đêm ở đó, hoặc đi từ đêm, sáng sớm ra phiên chính rồi về luôn, mới kịp đến nhà trước khi trời tối.  Nhiều phiên chợ vùng cao kết hợp với ngày đi lễ một ngôi đền thiêng, nên có thể tổ chức vào 30, mùng 1 hay 15 và 16, tất nhiên theo lịch âm.

Nhịp sống nông nghiệp theo tuần trăng và vụ mùa, nên âm lịch cổ đóng vai trò quyết định đối với việc phân chia các chợ phiên.

(Xem tiếp kỳ sau trên TT&VH số ra Chủ Nhật tuần tới)

Phan Cẩm Thượng



Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm