Chúng ta vừa đón một tin vui lớn trong lĩnh vực di sản: Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ chính thức được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường cùng làm tranh dân gian Đồng Hồ (Hà Nội, 13/10/2024). Ảnh tư liệu: Dương Giang-TTXVN
Danh hiệu xuất hiện vào tháng 12 này đã khép lại một năm đặc biệt sôi động của Việt Nam trên bản đồ di sản thế giới. Trước đó, vào tháng 4, UNESCO đã công nhận Bộ sưu tập của nhạc sĩ Hoàng Vân là Di sản Tư liệu thế giới. Rồi, tới tháng 7, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc tiếp tục được xướng tên ở hạng mục Di sản Văn hóa thế giới.
Ông Vishal V. Sharma (giữa), Chủ tịch Kỳ họp lần thứ 20 Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO gõ búa ghi danh di sản của Việt Nam
TS.KTS. Hoàng Đạo Cương, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam phát biểu tại Kỳ họp
Đến từ ba nhóm di sản quan trọng của UNESCO, ba danh hiệu quốc tế trong cùng một năm không chỉ mang lại niềm tự hào khi các giá trị văn hóa của Việt Nam được thế giới thừa nhận. Xa hơn, chúng cho thấy di sản đã trở thành một điểm tựa quan trọng trong cách chúng ta xác lập các hệ giá trị về bản sắc và văn hóa quốc gia khi bước vào kỷ nguyên mới.
Trong chuỗi tin vui ấy, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hiện lên với những sắc thái rất riêng. Tại đó, mỗi tờ tranh là kết quả của một hệ thẩm mỹ đã định hình qua nhiều thế kỷ, với chủ đề trải từ tranh thờ, các nghi lễ thờ cúng đến những cảnh sinh hoạt gắn với Tết Nguyên đán, Tết Trung thu.
Tất cả được tạo nên bằng những công đoạn thủ công tinh xảo: phác mẫu bằng bút lông và mực nho trên giấy bản, khắc ván gỗ thị, chế màu từ chàm, son, hoa hòe, quả dành dành, bột sò điệp, tro lá tre, rơm nếp, rồi in từng lớp màu lên giấy dó đã phủ hồ điệp trước khi hoàn thiện bố cục.
Một bức tranh dân gian tứ bình của Đông Hồ. Ảnh: TTXVN
Tranh dân gian Đông Hồ xưa thường được sản xuất vào cuối năm để phục vụ nhu cầu trang trí và thờ cúng của các gia đình dịp Tết
Đó là kỹ nghệ, nhưng cũng là một cách nhìn đời sống dân gian qua lăng kính của các nghệ nhân xưa. Và việc một làng nghề nhỏ ở Bắc Ninh được ghi tên trên bản đồ di sản thế giới lại là một gợi mở thú vị: Nếu đủ chiều sâu lịch sử và giá trị thẩm mỹ, những giá trị được hình thành trong không gian giới hạn của ngôi làng vẫn hoàn toàn có thể được nhìn nhận như phần đóng góp cho văn hóa nhân loại.
Nhưng cũng cần lưu ý, danh hiệu mới của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có gắn kèm cụm từ "cần bảo vệ khẩn cấp". Theo tiêu chí của UNESCO, đó là nhóm di sản văn hóa phi vật thể đang đối mặt nguy cơ mai một. Và để được ghi danh, bên cạnh các giá trị đặc thù của di sản, quốc gia sở hữu nó còn phải cam kết thực hiện một kế hoạch bảo vệ đặc biệt với sự tham gia đầy đủ của cộng đồng liên quan.
Ba thế hệ của gia đình nghệ nhân ưu tú Nguyễn Hữu Quả - một trong rất ít gia đình gắn với nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
Nhìn rộng hơn, nghề làm tranh Đông Hồ cũng không phải là di sản thế giới duy nhất tại Việt Nam thuộc diện này. Trong 17 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận, chúng ta có 3 trường hợp khác được xếp vào nhóm "cần bảo vệ khẩn cấp": Ca trù (2009), Hát Xoan Phú Thọ (2011) và Nghệ thuật làm gốm của người Chăm (2022).
Trong đó, Hát Xoan là ví dụ đáng chú ý nhất: Chỉ sau sáu năm, nhờ sự kiên trì của địa phương trong việc củng cố môi trường diễn xướng, tổ chức truyền dạy và tìm hướng phát huy phù hợp, di sản này đã được đưa ra khỏi danh sách cảnh báo vào năm 2017 "cần bảo vệ khẩn cấp", để chuyển thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghệ nhân có kỹ năng chạm khắc giỏi sẽ tạo được các nét gọn, mảnh, nhỏ, tinh vi và sắc nét
Khi vẽ tranh Đông Hồ, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực để vẽ lên giấy dó. Ảnh: Hoàng Hiếu/TTXVN
Cuộc bứt phá ngoạn mục ấy nên được nhìn như một cú hích tinh thần cho các di sản còn lại - bao gồm cả nghề làm tranh Đông Hồ. Nó cho thấy danh sách "cần bảo vệ khẩn cấp" còn là cơ hội kiểm chứng mức độ cam kết của cơ quan quản lý, khả năng phối hợp của địa phương và nỗ lực của cộng đồng trong việc giữ nhịp sống cho di sản.
Tất nhiên, chúng ta không thể đơn giản áp nguyên mô hình Hát Xoan Phú Thọ vào việc bảo tồn nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Bởi Hát Xoan vốn là hình thức diễn xướng dễ kết nối lại với đời sống cộng đồng qua giáo dục, văn hóa và du lịch. Trong khi đó, Đông Hồ lại là một nghề thủ công mang đậm yếu tố mỹ thuật, nơi mỗi sản phẩm đòi hỏi một chuỗi thao tác phức tạp, phụ thuộc vào nguyên liệu tự nhiên và tay nghề lâu năm, đồng thời phải tìm được thị trường đủ rộng để các nghệ nhân có thể sống bằng nghề.
Ông Nguyễn Đăng Chế, một trong những nghệ nhân tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ
Mực màu trên tranh Đông Hồ đều được làm từ nhiên liệu tự nhiên, như màu vàng của hoa hòe, màu đỏ của hoa hiên, màu trắng từ bột vỏ sò, điệp và màu đen của than lá tre
Thực tế, đây cũng gần như là lần đầu tiên Việt Nam đứng trước bài toán bảo tồn một di sản thế giới thuộc loại hình này. Thách thức vì thế lớn hơn, phức tạp hơn, nhưng cũng mở ra khả năng gắn dòng tranh với những hướng đi mới trong bối cảnh phát triển công nghiệp văn hóa, kể từ thiết kế sản phẩm, giáo dục thẩm mỹ đến các hoạt động trải nghiệm dành cho công chúng. Và cách tiếp cận này vẫn có những nền tảng cơ bản về nguyên tắc: Muốn di sản tồn tại bền vững, phải hình thành được lớp nghệ nhân mới và nuôi dưỡng nhóm công chúng trẻ có khả năng hiểu, trân trọng và khai thác di sản trong đời sống hiện đại.
Như thế, sau niềm vui khi một dòng tranh 500 năm tuổi, với kỹ thuật khắc gỗ và gam màu tự nhiên độc đáo, gắn cùng Tết và tín ngưỡng truyền thống, được thế giới công nhận, chúng ta cũng đón một nhiệm vụ mới: Từ thời điểm này, mọi kế hoạch và quyết định liên quan đến tranh Đông Hồ sẽ phải gắn cùng những nỗ lực mới để bảo tồn và phát huy nó trong dòng chảy của thời đại.
Nói cách khác, hãy coi danh hiệu này là vạch xuất phát cho một lộ trình dài hơi, với mục tiêu rõ ràng, với sự tham gia thực chất của cộng đồng và chính quyền, để dòng tranh dân gian Đông Hồ bước vào một giai đoạn phát triển mới, khi di sản đang được kỳ vọng chuyển hóa thành nhiều nguồn lực trong đời sống hôm nay.
Gian trưng bày tranh dân gian Đông Hồ trong Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”
Người dân tới trải nghiệm ở gian trưng bày tranh dân gian Đông Hồ trong Triển lãm thành tựu đất nước “80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”
Tranh Đông Hồ vẫn có thể thu hút khán giả trẻ
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất