(TT&VH) - Mở cửa giao lưu với thế giới không chỉ để cứu nền kinh tế, mà còn cứu nhiều ngành nghề khác, trong đó có nghề làm tranh Đông Hồ. Theo thời cuộc mà tranh Đông Hồ cũng có những biến đổi, chủ yếu là về mặt hình thức.
Đông Hồ thời hội nhập
Một trong 4 bản khắc gỗ tranh Xuân hạ thu đông |
Những năm cuối thập kỉ 80 thế kỉ trước, khi khối SEP và Liên Xô tan rã, con đường mòn nhỏ đưa tranh Đông Hồ đi sang thị trường Âu châu trong đó có thị trường Cộng hòa Dân chủ Đức lớn nhất của Xunhasaba bị gián đoạn; tổ làm tranh Đông Hồ do nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam làm tổ trưởng cũng dần dà bị giải tán theo. Những bộ ván khắc được các nghệ nhân gói ghém đưa cất lên gác xép. Người Hồ lúc đó chỉ còn nghề mã, mà nghề đó cũng không dám công khai tràn lan, ai biết việc nhà nấy.
Vào những năm đó, NXB Văn hóa Dân tộc thành lập tổ làm văn hóa phẩm để có thu nhập thêm vào đồng lương, đã nghĩ đến tranh Đông Hồ thu nhỏ làm bưu thiếp. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế người làng Hồ lúc đó là cán bộ của NXB, ông hăng hái bắt tay vào chuyện tìm lại hơi thở cho tranh Đông Hồ. Thấy mặt hàng mới bán được, ông lặng lẽ nghĩ ngay đến chyện sưu tầm phục dựng lại nghề tranh.
Ông Chế đã đến những nhà không theo nghề tranh nữa thu mua lại ván cũ. Những ván quá cũ nát không khai thác được nữa ông cho phục chế. Những mẫu in cũ ông đem đi khắc lại. Nhà nghiên cứu tranh dân gian duy nhất lúc ấy là ông Nguyễn Bá Vân của Viện Nghệ thuật còn giữ một số bản in nét những bộ tứ bình, thấy ông Chế nhiệt thành, ông đem ra tặng lại để mong ông có thêm những mẫu tranh đã gần như thất truyền. Bây giờ làng Hồ còn gia đình ông Nguyễn Đăng Chế và ông Nguyễn Hữu Sam là hai nghệ nhân đã sắp lục tuần đại khánh cả rồi nhưng vẫn kiên nhẫn giữ lấy tổ nghề. Tranh Đông Hồ lại được hàng vạn bản hàng năm trên các sạp hàng du lịch. Người Nhật đã đặt hàng với ông Chế mỗi năm vài ngàn bộ.
Tô màu như tranh Hàng Trống
Đi với thời cuộc, tranh Đông Hồ cũng lấy phục vụ thị trường làm động lực phát triển. Ông Chế về hưu và hằng ngày lại miệt mài trở về với ván khắc. Vẫn giữ thói quen năng động của người thợ dân gian theo sát thời cuộc và nhu cầu của thị trường ông tiếp tục lần mò tạo ra sự thay đổi cho loại mặt hàng này.
Tranh người nông dân và con trâu - ván nét đen
Những tranh tứ bình Xuân - Hạ- Thu - Đông ông đã thử nghiệm với cách làm mới. Bình thường thì tranh Đông Hồ in các bản màu trước (in theo kiểu đóng dấu từ ván khắc), từ màu nhẹ đến màu đậm (với bức tranh có nhiều màu nhiều ván thì có khi phải in tới 6-7 lần). Sau khi in màu xong, thì in bản nét sau cùng là xong bức tranh. Với thử nghiệm mới, ông Chế chỉ in bản nét, sau đó cản bóng bằng mực nho bắt chước lối làm tranh Hàng Trống, vậy là chỉ còn đen trắng và độ ghi nhẹ, tạo nên vẻ thủy mặc. Cách này theo tôi là hiệu quả vì tạo nên sự trang nhã, thanh đạm khác với vẻ sặc sỡ của những bức tranh Đông Hồ in bình thường. Loại tranh này người Nhật và Pháp rất thích, nên ông Chế xuất sang các nước đó rất nhiều.
“Nới rộng” khuôn khổ các bức tranh
Có những du khách cầu kì muốn bức tranh Đông Hồ to hơn gấp đôi gấp ba bình thường, ông cho phóng bản nét bức tranh to ra rồi can nét xuống mặt tờ giấy điệp rồi tô màu bằng tay theo mẫu. Bởi lẽ, ván khắc tranh Đông Hồ có khổ cố định và tương đối nhỏ (khoảng 30x40cm), nên không thể in ra bức tranh với khổ lớn hơn. Với sự năng động này, mỗi bức tranh Đông Hồ khổ to, ông Chế có thể bán được hàng trăm ngàn, gấp nhiều lần so với khổ thường.
Hai Bà Trưng khởi nghĩa (Vẽ tay khổ lớn, 50x60)
Ông lại cho khắc ván bản nét một số bức tranh với đủ kích cỡ từ to bằng nguyên bản đến mi ni và bán luôn cả bản khắc cho khách yêu thích. Những bộ tranh đôi, những bộ tứ bình in xong ông cho bồi lên mành tăm trục trúc khổ 40x100 trông rất xinh xắn, người mua cuộn tròn lại rất tiện lợi, mà mắt tranh lại được giữ gìn tốt.
T
ranh tứ bình – in nét rồi cán bóng bằng mực Nho, bồi trên mành tăm (40x100 mỗi bức)
Những cải tiến về hình thức ấy luôn được thay đổi để bắt nhịp kịp với nhu cầu thị trường nên đã cải thiện được giá cả. Cách đây dăm bảy năm, ông làm hàng tranh trục tứ bình đen trắng và tranh chữ xuất cho người Nhật, năm cũng được vài ba ngàn bộ. Từ nhiều năm nay Đông Hồ thành điểm đến cho nhiều tua du lịch văn hóa. Ngoài ông Nguyễn Đăng Chế ra, gia đình ông Nguyễn Hữu Sam cũng vẫn tiếp tục nghề tranh. Còn nghệ nhân trẻ Trần Nhật Sử cũng khi làm khi bỏ theo nhịp đập của thị trường. Tuy số nghệ nhân theo nghề tổ còn ít nhưng số lượng tiêu thụ hàng năm là rất đáng kể nên chắc chắn dòng tranh Đông Hồ dù không sầm uất như xưa nhưng không thể bị diệt vong vì sự nuôi nấng của thị trường du lịch và cái giá vẫn rất bình dân của nó.
Cứ nhìn các ván khắc hôm nay thì biết, dòng máu của nghệ nhân làng Hồ với nghiệp làm tranh in chưa thể dứt mà còn tinh xảo hơn cả thế hệ cha anh.
“Ăn theo” tranh Đông Hồ
Ngoài cách “cày xới lại trên mảnh ruộng Đông Hồ” của họa sĩ Phạm Huy Thông (“nhại” tranh Đông Hồ để phản ánh các vấn đề thời đại); còn có một số hình thức độc đáo khai thác sức hấp dẫn của tranh Đông Hồ như:
* “Vẽ” tranh Đông Hồ bằng những cánh bướm. Đó là các làm của GS. TS. Bùi Công Hiển, Giám đốc trung tâm nghiên cứu côn trùng học, Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông dùng cánh, chân những con bướm để tạo thành những bức tranh Đông Hồ như: “Cá chép vọng nguyệt”, “Đánh ghen” hay “Vinh hoa”…
* Đưa tranh Đông Hồ lên chất liệu đồng. Đó là cách làm của một số nghệ nhân làng đúc đồng Đại Bái. Các bức “Đám cưới chuột”, “Chăn trâu thổi sáo”, “Hứng dừa”, “đánh ghen”… được đúc nổi và điểm nét trên những tấm đồng tạo vẻ đẹp độc đáo. |
Họa sĩ Đỗ Đức