Và trong 36 làng nghề ấy có làng thêu Quất Động, nơi chôn nhau, cắt rốn của nghệ
nhân thêu nổi tiếng Hà thành Thái Văn Bôn.
Mang tinh
hoa về đất Kinh kỳ
Hà
Nội với bề dày nghìn năm tuổi, là “đất thiêng” thu hút nhân tài bách nghệ bốn
phương là điều không có gì là lạ. Cư dân tứ xứ về Hà Nội, người tài có, người
buôn thúng bán mẹt, làm thuê làm mướn cũng nhiều và chính họ đem theo những
phong tục, lề thói địa phương trộn vào văn hóa Kinh kỳ mà thành ra nếp sống
Tràng An.
Làng Quất Động có tên nôm là làng
Quýt, một trong 9 làng thuộc tổng Bình Lăng, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín,
trấn Sơn Nam Thượng, (năm 1831 thuộc tỉnh Hà Nội). Thợ thêu trong làng từ xưa đã
đem nghề đi lập nghiệp ở kinh thành Thăng Long và nhiều nơi trong cả nước.
Nghệ
nhân Thái Văn Bôn vẫn miệt mài truyền nghề cho những người thợ trẻ
Thân phụ nghệ nhân Thái Văn Bôn là
một người giỏi nghề thêu, từng phiêu bạt khắp nơi vừa làm nghề, vừa buôn bán.
Sinh ra ở Hà Nội, cậu bé Bôn được “mớm nghề” bắt đầu bằng những huyền sử về nghề
thêu là Quất Động. Ấy là vào đời Lê Thái Tông, cụ tổ nghề Bùi Công Hành được
triều đình cử dẫn đầu đoàn sứ thần sang nhà Minh. Vua Minh muốn thử tài vị sứ
giả nước Nam bèn cho dựng một lầu cao mời ông lên chơi, rồi cho rút thang bỏ ông
một mình trên đó. Ông quanh quẩn trên lầu thấy có hai phong tượng sơn son thếp
vàng, một chum nước, hai cái lọng cắm trước ban thờ, trên cao treo bức nghi môn
thêu ba chữ “Phật tại tâm”. Một ngày, hai ngày... vẫn không có ai cung cấp thức
ăn. Ông nghĩ: Có chum nước uống ắt phải có thứ ăn được. Chợt nghĩ đến 3 chữ trên
nghi môn “Phật tại tâm” có nghĩa là Phật ở trong lòng, ông gật gù cầm tay tượng
thấy mềm bèn bẻ ra thấy tượng nặn bằng bột chè lam, ăn rất ngon. No nê rồi, ông
hạ chiếc lọng xem kỹ cách làm để nhập tâm. Vài ngày sau, ông tiếp tục tháo chiếc
nghi môn xuống học cách thêu nổi như thế nào. Ăn hết tượng, uống hết nước, ông
cầm hai chiếc lọng làm dù nhảy xuống đất an toàn. Vua Minh nghe tin rất nể phục.
Khi về nước, ông đem kỹ thuật làm lọng và nghề thêu nổi truyền dạy cho dân trong
vùng. Đó là các xã Quất Động, Tam Xá, Vũ Lăng, Hướng Dương, Hương Giai. Sau 5 xã
này lập đền thờ ông gọi là đền Ngũ Xá.
Nghệ nhân Thái Văn Bôn được Nhà nước phong tặng danh
hiệu Nghệ nhân năm 1988; Huy chương vàng tại Hội chợ kinh tế kỹ thuật toàn quốc
với bức tranh Chợ quê (1989); Danh hiệu Bàn tay vàng với những tác phẩm thêu
phong cảnh và tĩnh vật tại Hội chợ Thủ công mỹ nghệ và Kim hoàn toàn quốc
(1996)... |
Ở Kinh kỳ, người Quất
Động tập trung lập nên phố Hàng Thêu (nay là một đoạn phố Hàng Trống), phố Hàng
Lọng (nay là đường Lê Duẩn) và hiện còn ngôi đình Tứ Thị thờ ông ở số 2 ngõ Yên
Thái. Giống như một cái duyên, nghệ nhân Thái Văn Bôn lại dời quê đem nghề thêu
đến phố Trần Cao Vân (Hai Bà Trưng), được nhiều người biết đến với bức tranh
thêu tay có giá trị nghệ thuật cao. “Vua kim chỉ” đất
Hà thành Nghệ nhân Thái Văn Bôn năm nay đã
bước sang tuổi 78 vẫn được nhiều người gọi vui là ông “Vua kim chỉ” bậc nhất Hà
thành. Ngày nhỏ, ông học tiểu học ở Hà Nội, sau thoát ly gia đình lên Việt Bắc
vào Đội thiếu sinh Vệ quốc quân rồi được sang học tại Khu học xá Nam Ninh (Trung
Quốc) từ năm 1951-1953. Tốt nghiệp, Thái Văn Bôn được phân công về dạy học ở
vùng tự do Khu 4 (Thanh Hóa). Một năm sau (1954), khi hòa bình lập lại, như là
một cái duyên, ông về làng Quất Động tiếp tục “gõ đầu trẻ”. Tại nơi chôn nhau
cắt rốn của mình, nghề thêu truyền thống đã làm bùng lên niềm đam mê sẵn có
trong ông, để rồi giờ đây, sau gần 60 năm gắn bó với “mũi kim, sợi chỉ” tên tuổi
ông hầu như với bất kỳ ai thích chơi, có thú chơi tranh thêu ở Hà Nội đều ngưỡng
mộ cái “thần”, cái “hồn” của cuộc sống mà bằng tài năng của mình ông đã “thổi”
vào mỗi sản phẩm. Ông
cũng là nghệ nhân được mệnh danh có đôi bàn tay “Guinness” Việt Nam khi thể hiện
sự kính trọng của mình (thông qua mỗi mũi thêu) qua bức tranh thêu kỷ lục về
chân dung Hồ Chủ tịch với khổ rộng 1,6m, cao 2m. Bức tranh thêu bằng sợi tơ tằm
này, theo như nghệ nhân cho biết tính ra phải hơn một tỷ mũi thêu từ 40 đôi tay
của 20 thợ trong vòng 60 ngày đêm. Nếu ngồi tính chi ly ra thì mỗi một thợ mỗi
ngày chỉ thêu được 10cm2! Năm
1999, nghệ nhân Thái Văn Bôn tham gia Hội chợ triển lãm ASEAN tại Thái Lan. Lần
ấy, ông đã khiến cho Hoàng gia Thái Lan phải ngỡ ngàng khi ông miệt mài làm việc
với mũi kim, sợi tơ trong vòng một tuần để thêu một bức chân dung nhà vua Thái
Lan Bhumibol Adulyadej. Bức tranh thêu này sau đó được Đại sứ quán Việt Nam tại
Bangkok tổ chức trọng thể lễ trao tặng cho đại diện Bộ Ngoại giao Thái Lan, đúng
vào dịp kỷ niệm 72 năm ngày sinh của Đức vua Bhumibol Adulyadej. Nghệ nhân Thái
Văn Bôn xúc động nhớ lại: “Hôm trao tặng bức tranh thêu, tôi được mời lên phát
biểu. Tôi chỉ nói được thế này: Chúng tôi không muốn thể hiện gì ngoài lòng kính
trọng của chúng tôi đối với Đức vua và qua đó, nhằm chứng tỏ nghề thêu thủ công
của Việt Nam đã đạt tới đỉnh cao, có khả năng thêu tả các tác phẩm tranh cảnh và
truyền thần, vừa thể hiện tình cảm của những nghệ nhân Việt Nam với với Nhà vua,
với đất nước và nhân dân Thái Lan, góp phần nhỏ bé vào việc tăng cường và phát
triển hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân dân hai nước”. Gần trọn cuộc đời làm nghề và dạy
nghề, đã có gần 800 thợ thêu và hàng trăm giáo viên dạy nghề thêu khác được nghệ
nhân Thái Văn Bôn đào tạo qua các đợt huấn luyện tay nghề, tại các lớp học tập
trung. Ngoài việc dạy nghề, nghệ nhân Thái Văn Bôn còn là tác giả của nhiều cuốn
sách về nghề thêu do NXB Giáo dục xuất bản như: Thêu màu (1983), Hướng dẫn thêu (1989), Kỹ thuật thêu màu (1995), Nghề thêu rua (năm 2000, tái bản lần thứ 5
tháng 11/2009), Hoạt động giáo dục nghề phổ
thông, Nghề thêu tay xuất bản năm 2008, tái bản tháng 11/2009. Những cuốn
sách này được đưa vào chương trình hướng nghiệp trong các trường trung học phổ
thông trong cả nước. Nghệ nhân Thái Văn Bôn kết luận:
“Người nghệ nhân, đơn giản chỉ là những người sống cả đời mình chỉ cho một cái
nghề. Làm nghề thêu thuê ráo mồ hôi là hết tiền, nhưng cái quý báu nhất đối với
nghệ nhân là giá trị tinh thần, có tác dụng động viên, khích lệ để họ cảm thấy
vẻ vang, tiếp tục tỏa sáng, làm ra những giá trị đích thực làm đẹp cho đời. Để
tạo ra được giá trị ấy, con người cần phải có trí tuệ, sự hiếu học và luôn đề
cao chuẩn mực đạo đức trong nghề. Thủ đô Hà Nội là vùng đất mang trong mình
những giá trị ấy”.
Khôi
Nguyên