Những ngày Thu lịch sử này, ký ức về Ngày Độc lập lại ùa về trong kỷ niệm của nhiều gia đình, nhất là những gia đình giàu truyền thống cách mạng. Và gia đình của Trung tướng Nam Long - vị đội trưởng đơn vị bảo vệ Bác Hồ từ Tân Trào (Tuyên Quang) về Hà Nội 80 năm trước - là một minh chứng như thế.
Giữa dòng hồi tưởng, hình ảnh người cha giản dị mà vĩ đại lại hiện về trong tâm trí của ông Đoàn Nam Tiến (con trai út của tướng Nam Long) đầy xúc động. Đó không chỉ là ký ức về một đời binh nghiệp lừng lẫy, mà còn là những khoảnh khắc ấm áp, chan chứa yêu thương của một người cha trong gia đình.
Sinh ra tại Cao Bằng, vùng đất cội nguồn của cách mạng Việt Nam, Nam Long (tên thật Đoàn Văn Ưu, người dân tộc Tày) đã sớm được hun đúc tinh thần yêu nước ngay từ tuổi thiếu niên. Đầu những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã bước vào con đường cách mạng dưới sự dìu dắt của người anh họ - nhà cách mạng tiền bối Hoàng Đình Giong. Từ đây, Nam Long từng bước trưởng thành giữa những thử thách của phong trào cách mạng sôi sục nơi núi rừng Việt Bắc.
Tháng 2/1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Tại Pác Bó, Người đã đưa ra nhiều quyết sách mang tính sống còn, đặt nền móng cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Một trong những quyết định quan trọng là lựa chọn và đưa một số thanh niên ưu tú sang Trung Quốc học tập tại Trường Quân sự Hoàng Phố, để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng một cách bài bản và chính quy. Bấy giờ, chàng thanh niên yêu nước Đoàn Văn Ưu là một trong những người được lựa chọn.
Sau hơn 3 năm miệt mài cố gắng học tập, Đoàn Văn Ưu cùng một số đồng đội nhận lệnh về nước, gia nhập lực lượng vũ trang căn cứ địa Cao-Bắc-Lạng. Từ đây, vị tướng tương lai chính thức mang tên Vũ Nam Long. Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Nam Long là một trong những đội viên đầu tiên dưới quyền chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Giữa năm 1945, trong không khí sục sôi của cao trào cách mạng, Nam Long được cấp trên tin tưởng, điều động giao nhiệm vụ đặc biệt: làm đội trưởng đội bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh tại chiến khu Tân Trào. Ông không chỉ cùng đồng đội trang hoàng hội trường nơi tổ chức Quốc dân Đại hội, mà còn vinh dự bắn ba loạt đạn chào mừng hội nghị.
Cuối tháng 8/1945 dưới sự chỉ huy của Nam Long, đội cận vệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hộ tống và bảo vệ an toàn Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về Hà Nội. Có lẽ đó là lần đầu tiên người thanh niên dân tộc Tày đặt chân lên đất Hà Nội với tâm thế là con dân của một đất nước làm chủ vận mệnh của mình.
Ngày 2/9/1945, Nam Long cùng một số chiến sĩ giải phóng quân và lực lượng Tự vệ Thành Hoàng Diệu tham gia bảo vệ lễ đài trong lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Chính tại nơi đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nhớ về cha trong ngày Độc lập, ông Đoàn Nam Tiến xúc động: "Bố và các đồng đội bảo vệ lễ đài cực kỳ vất vả. Đó là những người bảo vệ bằng sự kiên trung, nhanh nhẹn, trung thành…". Trong ký ức của ông, phía sau khí thế sục sôi và trọng trách thiêng liêng là dáng hình của những người lính bình dị, mộc mạc, lần đầu đặt chân tới Thủ đô. Họ mang theo hành trang là lòng trung thành son sắt và ánh mắt ngỡ ngàng trước một thế giới mới mẻ.
Cách mạng Tháng Tám thành công chưa được bao lâu, quân Pháp nổ súng tái xâm lược Nam Bộ. Là một chiến sĩ giải phóng miền sơn cước giàu khí phách, chỉ vài ngày sau lễ Độc lập, Nam Long tiếp tục lên đường Nam tiến, đảm trách Chi đội trưởng của chi đội Nam tiến đầu tiên (chi đội Nam Long), có mặt tại Nam Trung Bộ và Nam Bộ, khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ ở những miền đất này, vào cuối tháng 9/1945.
Và có một chi tiết lịch sử đáng nhớ, tháng 4/1975, tròn 30 năm sau lần Nam tiến thứ nhất, tướng Nam Long lại Nam tiến lần thứ hai với cương vị đặc phái viên Bộ Quốc phòng. Ông đã sát cánh cùng các tướng Lê Trọng Tấn, Đồng Sĩ Nguyên chỉ huy cánh quân phía Đông tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ông đã có mặt ở dinh Độc Lập trong những giờ phút đầu tiên của thành phố được giải phóng, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.
Trong suốt những năm tháng giữa hai lần Nam tiến lịch sử của mình, tướng Nam Long vẫn tiếp tục khẳng định tên tuổi của một chiến tướng dày dạn, gắn bó với nhiều trận đánh lớn và các mặt trận khốc liệt có ý nghĩa chiến lược đối với vận mệnh cách mạng. Ông cũng lần lượt đảm nhiệm nhiều vị trí chỉ huy then chốt trong các chiến dịch và nhiệm vụ quan trọng.
Cụ thể, ông đã cùng đồng chí Lê Quảng Ba chỉ huy quân tình nguyện vượt Thập Vạn Đại Sơn làm nghĩa vụ quốc tế gần nửa năm (1949). Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, với tư cách Tham mưu trưởng Đại đoàn 304, ông cùng các chiến sĩ bao vây, đánh tan quân thực dân Pháp tại phân khu Hồng Cúm. Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ông khi ấy là Phó tư lệnh Quân khu Trị - Thiên, đã chỉ huy Quân đội chiếm giữ Huế. Đến mặt trận Đường 9 - Nam Lào 1971, ông tiếp tục tham gia chỉ huy, đánh bại chiến dịch Lam Sơn 719.
Đến 16 năm cuối của binh nghiệp, từ 1973 - 1989, tướng Nam Long rời chiến trường về Hà Nội, làm Phó giám đốc Học viện Quân sự cấp cao của Bộ Quốc phòng. Ông đã góp phần xứng đáng trong sự nghiệp đào tạo, bổ túc cán bộ chỉ huy cho quân đội và nghiên cứu các vấn đề chiến lược quan trọng đối với công cuộc bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Ngẫm lại đời binh nghiệp lừng lẫy của cha mình, ông Đoàn Nam Tiến không khỏi xúc động và tự hào. Ông bộc bạch: "Tôi luôn cảm nhận rằng, với cha mình, chiến trường là nhà, đất nước là quê hương. Ông từng có mặt ở hầu khắp các mặt trận lớn, từ Bắc vào Nam. Gần như không có chiến dịch ác liệt nào mà ông vắng mặt, từ Điện Biên Phủ năm 1954 đến đại thắng mùa Xuân 1975. Mỗi chiến dịch đều in đậm dấu ấn chỉ huy của ông".
Với ông Đoàn Nam Tiến, ký ức về cha mình không chỉ gắn với hình ảnh một vị tướng dày dạn chiến công, mà còn là bóng dáng một anh Bộ đội Cụ Hồ khiêm nhường, một người cha nghĩa tình, giàu trách nhiệm.
Trong sâu thẳm ký ức của người con trai út này vẫn in đậm chuyện tình đặc biệt giữa cha mẹ trong những năm tháng bom đạn ác liệt. Ông kể: "Năm 1945, khi Chi đội Nam Tiến của cha tôi hành quân qua Vinh, ông diễn thuyết kêu gọi thanh niên gia nhập đoàn quân. Mẹ tôi khi đó là lực lượng đoàn thể cứu quốc, đã lên đường đi theo đội quân ấy. Đến năm 1946, cha tôi trở ra chiến khu Đông Bắc, còn mẹ thì quay trở lại Vinh".
Một năm sau, vào khoảng năm 1947, câu chuyện nối dài bằng một chi tiết cảm động. "Mẹ tôi kể, khi ấy cha tôi cho người thân tín mang một khoản tiền trở về Vinh, dặn rằng: nếu mẹ tôi đã mất, hãy mua hoa trải lên mộ. Nếu bà đã có con, hãy dùng tiền mua quần áo trẻ em để tặng. Còn nếu mẹ tôi vẫn còn chờ, thì hãy đưa bà vượt đường hiểm trở ra an toàn khu" - ông kể lại - "Và mẹ tôi đã chọn đi theo. Cưới nhau chưa bao lâu, cha tôi lại ra mặt trận, còn mẹ ở lại tảo tần nuôi dạy các con lên người, một mình gánh vác gia đình qua năm tháng dài đằng đẵng. Tôi cảm phục mẹ tôi!".
Nhớ lại mối tình giản dị mà sâu sắc của cha mẹ mình, ông Đoàn Nam Tiến càng thêm thấm thía về cốt cách của người cha. Một người lính sống nghĩa tình, ứng xử đầy khí phách, thủy chung, đúng chất một vị tướng suốt đời gắn bó với nhân dân và đất nước.
Không chỉ là người chồng thủy chung, trong vai trò người cha, tướng Nam Long cũng luôn hiện diện bằng sự nghiêm khắc, sâu sắc và ấm áp. Trong đời sống thường nhật, ông vẫn giữ phong cách của một người lính: giản dị, kỷ luật, nhưng đầy yêu thương.
"Hồi học lớp 7, tôi cố gắng học tập tốt, tích cực tham gia các phong trào thi đua của trường lớp nên được kết nạp Đoàn. Lúc đó, tôi cảm thấy oai lắm, khai trong tờ lý lịch: Bố là tướng Nam Long" - ông Đoàn Nam Tiến kể - "Khai xong, tôi đưa cho cha để ông ký xác nhận và lấy dấu đơn vị. Ông đọc rồi bảo bỏ đi và khai lại. Lúc đó, tôi chẳng hiểu nổi vì sao. Giải thích cho tôi, ông bảo, con khai lại: bố Nam Long, nghề nghiệp bộ đội, đừng có ghi tướng tá gì vào đây. Sau này, tôi mới cảm nhận và hiểu rằng, suốt cuộc đời, ông chỉ nghĩ mình là Bộ đội Cụ Hồ".
Lần khác, vào khoảng năm 1989, khi ông Đoàn Nam Tiến còn là thủy thủ viễn dương, chưa lập gia đình. Vào 29 Tết năm đó, thay vì phải đi Indonesia như dự kiến, ông bất ngờ được ở lại, liền trở về TP.HCM.
"Về tới nhà, tôi thấy nhà cửa im ắng, chẳng có không khí Tết. Tôi gọi cửa: "Bố mẹ ơi, con không phải đi Indonesia nữa, được ở nhà ăn Tết". Cha tôi khi đó mừng lắm, hai ông bà cùng nhau ra chợ mua được 2 chậu hoa cúc về bày biện" - ông kể - "Tôi mới thắc mắc hỏi, sao nhà mình không chuẩn bị Tết? Cha nói một câu làm tôi vô cùng xúc động: "Không có con thì không có Tết".
Ảnh: GĐCC
Từ thuở bé thơ đến lúc trưởng thành, ông Đoàn Nam Tiến vẫn luôn nhận được tình yêu thương ấm áp từ cha như thế, dù thể hiện một cách lặng lẽ và đầy nguyên tắc. Trong ký ức của người con trai út, tướng Nam Long là một người đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ, ông không bao giờ uống rượu bia, kể cả khi tiếp khách quan trọng trong nước hay quốc tế. Vậy mà có một lần duy nhất, ông "phá lệ" vì con trai.
"Năm 1993 khi tôi mở quán ăn ở ngôi nhà nằm tại phố Phan Đình Phùng. Cha tôi từ TP.HCM ra Hà Nội họp Hội cựu chiến binh, tiện đường ghé qua. Mừng vì ông tới dự lễ khai trương nhà hàng, tôi pha mời cha một ly cocktail. Lần đầu tiên trong đời cụ uống rượu, uống xong, mặt cụ đỏ bừng nói ngắn gọn: "Chúc thành công nhé!" rồi lập tức ra xe đi" - ông nhớ lại - "Về sau, tôi bị mẹ mình trách suốt vì "dám mời bố uống rượu". Cuộc đời cụ chỉ uống một lần duy nhất đó, khi con trai mở quán. Tôi bị mẹ mắng nhưng lòng lại rất cảm động...".
Cho đến hôm nay, những ký ức về cha vẫn được ông Đoàn Nam Tiến nâng niu, gìn giữ như những bài học sống quý giá. Để rồi, ông và gia đình luôn soi mình theo tấm gương của cha, trong cách sống, trong lẽ ứng xử khiêm nhường và chân thành. Và chân dung một vị tướng tài ba, lừng lẫy mà khiêm nhường, tình nghĩa… cứ thế sống mãi trong tâm trí những người ở lại.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất