Nếu cứ nghêu ngao hát “Tôi sinh, sinh từ nơi đây. Cha tôi cũng sinh từ nơi đây. Ơi M’drăk…”, rồi lại nhìn Nguyễn Cường tóc rối bời cỏ dại, để ria từ 1975 khi có người khen đẹp đến nay, hễ cười nói là rổn rảng, ngông nghênh kiêu bạc như một gã cao bồi già – người ta thường đoán chỉ có rừng rú mới “nảy nòi” ra người đàn ông này. Thế nhưng Nguyễn Cường lại là trai Hà
Nội – dân phố cổ “xịn”, Hàng Bạc đàng hoàng, người đã dành hết những
năm tháng trai trẻ đẹp đẽ nhất của đời mình để lặn lội với Tây Nguyên.
1.
Theo Nguyễn Cường, phải sống ở Hà Nội nhiều đời thì thời gian đó mới đủ
để hun đúc nên tính cách, phẩm chất rất riêng của người Hà Nội. Cái
tinh thần của người Hà Nội lạ lắm. Học thức, đầy kiêu hãnh, nhưng lại
an phận thủ thường, không có nhu cầu liên kết bè phái, không có khả
năng bon chen, không mê chính trị. Mỗi người Hà Nội là một nghệ sĩ - họ
lãng mạn, ưa được rong chơi và sáng tạo trong từng ngày sống của mình.
Nguyễn Cường nghĩ thế vì suy ra từ chính bản thân mình.
Nguyễn
Cường kể, có lần anh đi chữa xe Vespa ở phố Phủ Doãn, gặp một người đàn
ông cùng tầm tuổi. Ông ta nói: “Lâu lắm mới gặp một người Hà Nội ở giữa
Hà Nội”. Dù gương mặt Nguyễn Cường thì 50% là mũ cao bồi, 30 là râu,
20% là kính.
Câu nói đó
thật lạ lùng! Ai cũng biết Hà Nội là thanh bình, nề nếp. Nhưng anh lại
nghĩ Hà Nội là một khái niệm vận động, Hà Nội là quá trình văn hóa hội
nhập và biến đổi, là tụ hội tinh hoa mọi vùng miền, lắng đọng rồi lan
tỏa ngược trở lại. “Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội” – câu nói này
không hề là một khẩu hiệu chính trị. Người tứ phương đến Hà Nội là ghê
gớm lắm, họ mang theo khát vọng và ý chí đổi đời. Những công dân này
làm Hà Nội năng động, bỗ bã và cũng khỏe khoắn hơn rất nhiều. Nếu biết
mở mình để tiếp nhận nguồn sức sống mới này sẽ không thấy mình mất mát.
Có những người Hà Nội cũ cực đoan không chấp nhận quá trình biến đổi
ấy, họ có cảm giác mình bị lạc loài. Cái bát nháo hiện nay của Hà Nội
là một phản ứng kết tủa văn hóa bắt buộc. Khi nó qua đi thì Hà Nội sẽ
ổn định – dù có thể thời gian để “phản ứng” này hoàn thành có khi mất
vài chục, vài trăm năm. Quá trình kết tủa ấy lâu hay mau phụ thuộc rất
nhiều vào tầm vóc văn hóa của bộ máy chính quyền Hà Nội.
Nếu
định nghĩa bằng âm nhạc thì Hà Nội là quan họ, là hip-hop, rock, dân ca
Tây Nguyên, là chèo, là xẩm, là cải lương…đã được hòa trộn và lọc qua
một tấm phin. Chính vì Hà Nội có bản lĩnh tinh hoa, thì mới đủ cường
tráng để hợp duyên với văn hóa các vùng miền khác. Nhiều người hỏi
Nguyễn Cường: tại sao anh lại đến Tây Nguyên? Câu trả lời đơn giản
thôi: “Vì tôi là người Hà Nội! Không phải tôi đến với Tây Nguyên chỉ
bằng mấy câu nhạc vàng, quan họ, nhạc đỏ, nhạc tiền chiến… mà tôi đến
Tây Nguyên cả với Bach, Mozart, Betthoven, nhạc Jazz, Disco… ở sau
lưng. Tôi mang theo nỗi khát vọng của tuổi trẻ cùng một tình yêu thật
lòng (yêu đến mức lặn lội - “mấy sông cũng lội mấy núi cũng trèo”). Cả
Hà Nội trong tôi cùng đến với Tây Nguyên. Không có Nguyễn Cường này thì
sẽ có một Nguyễn Cường khác của Hà Nội tìm đến Tây Nguyên. Tôi tự thấy
mình hợp với khí chất khoáng đãng, rộng lớn và mãnh liệt của Tây
Nguyên. Tôi yêu Hà Nội theo cách “con không chê cha mẹ khó”- đó là tình
yêu không được lựa chọn. Và vì thế có lúc tôi yêu mà lòng đầy bất mãn.
Còn Tây Nguyên là một người tình đầy mê đắm. “Nàng” quyến rũ tôi bởi
những huyền thoại và cỏ dại, và tôi đã theo “nàng” bằng cả thời trai
trẻ- mối tình si ấy đã đằng đẵng hơn 30 năm nay. Tôi có Hà Nội là miền
thực, Tây Nguyên là miền mơ - liệu mấy ai có “gia tài” ấy như tôi?”
2. Cha
anh, cụ Nguyễn Quang Hộ, quê gốc ở Phú Xuyên – Hà Tây cũ, nhưng sinh
năm 1910 tại Hà Nội. Thời Pháp thuộc, cha anh là phi công hãng Air
France, ông đã tử nạn trên một chuyến bay dân dụng vì đâm vào núi ở Sơn
Trà năm 1953.
Cha Nguyễn Cường đã để lại cho anh một thể lực,
sức vóc hợp với mọi chuyến phiên lưu. Sự gắn bó của Nguyễn Cường với
Tây Nguyên gần như một cơ duyên đã được định sẵn. Năm 1964, sau khi tốt
nghiệp trung cấp Violoncelle trường âm nhạc Hà Nội, anh được phân công
về đoàn văn công Tây Nguyên và ở lại đó 2 năm. Ngay lập tức, cái nắng,
cái gió, cà phê và cả mầu đất đỏ bazan lập tức đã cuốn hút Nguyễn
Cường. Năm 1981, anh và nhạc sĩ Trần Tiến quay lại vùng đất này. Ấn
tượng mạnh mẽ nhất trong anh lúc ấy là được nghe người dân đánh chiêng
trong một đêm uống rượu cần. Tiếng chiêng ấy đã tạo cho anh cảm xúc để
viết bài hát Nhịp chiêng buôn Kơ Siar với khúc mở đầu “Đêm huyền thoại,
đêm dừng lại, tôi nghe từ buôn Kơ Siar…” Cũng năm 1981, ca khúc Hơ Zen
lên rẫy của Nguyễn Cường được công chúng đón nhận khá nồng nhiệt.
Bao
nhiêu năm qua, Nguyễn Cường đã cho ra đời khoảng 100 tác phẩm ca khúc
và khí nhạc từ những giai điệu dân gian của Tây Nguyên. Mỗi lần đến,
mỗi lần đi, cảm xúc mới lại về và ca khúc mới lại ra đời. Người dân Tây
Nguyên không chỉ thích nhạc Nguyễn Cường mà còn coi đó là tài sản của
họ. Một số bài của anh còn được chính giới nhạc sĩ nhầm tưởng đó là dân
ca như nhạc sĩ Huỳnh Tú ở Nhà hát Thăng Long đã tưởng bài “Thênh thênh
oh ơi” là dân ca Ba Na để phát triển thành khí nhạc. Bài “H’Ren lên
rẫy” còn được các tộc người Ba Na, Gia Lai, Êđê… dịch ra tiếng của họ
để hát. Những ai đã lên Tây Nguyên và đã sống ở Tây Nguyên đều biết
điều đó. Sáng tác trên nền kiến thức âm nhạc được học hành cẩn thận là
lý do vì sao anh có thể “bền và sâu” như thế. Nghe nhạc và quan sát
“chất” của Nguyễn Cường, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha đã có một nhận xét về
anh: “Phi công bay bốn khí tượng”, tức là bay được cả đêm, ngày, mưa,
nắng.
3.
Mẹ Nguyễn Cường, cụ Nguyễn Thị Nhung sinh năm 1920, gia đình nhà ngoại
đã có 5 đời sống ở Hà Nội. Từ khi cha anh tử nạn máy bay năm 1953 đến
nay, mẹ anh vẫn hưởng lương trợ cấp ở Pháp gửi về, đều đặn khoảng hơn
1.000 Euro mỗi tháng. Những đời trước nữa tổ tiên anh làm nghề chài
lưới ở Hồ Tây, nhà thờ tổ ở vị trí khách sạn Thắng Lợi bây giờ. Mẹ
Nguyễn Cường cho anh cái chất Hà Nội “thâm căn cố đế”. Đó là lý do vì
sao Nguyễn Cường viết bài hát “Mãi mãi tuổi thơ tôi Hà Nội”. Viết bài
ấy mất 10 năm, vì quá hiểu Hà Nội nên đâm ra thận trọng.
Theo
Nguyễn Cường, phẩm chất của người Hà Nội là làm cái gì thì bao giờ cũng
muốn vươn tới tầm bác học. Làm văn hóa cũng phải ở chiều sâu nhất, dù
năng lực có thể không tới nhưng cái đích luôn là như vậy. Theo anh, Hà
Nội là “khí nhạc”. Trong âm nhạc, người ngoại đạo coi những nghệ sĩ
sáng tác bài hát là nhạc sĩ, điều đó không sai, nhưng mới chỉ là định
nghĩa cấp I. Sâu hơn phải có giao hưởng, sonat, nó bắt người sáng tác
phải sáng tạo, không có “chữ” nào cũng xây dựng được tác phẩm chứ không
phải chỉ cứ “vịn vào chữ mà đi”.
“Rabindranath Tagore sáng tác
khoảng 600 ca khúc, trong đó có hai bài được chọn là quốc ca của Ấn Độ
và Bangladesh, nhưng có ai gọi Tagore là nhạc sĩ đâu?” – Nguyễn Cường
nói, rồi anh cầm lấy cái hóa đơn thanh toán tiền điện ngôi nhà mình ở
phố Hàng Bạc mà người bên ngành điện mới chuyển tới, nghĩ một chút rồi
hát “vịn chữ” cụm từ “hóa đơn thanh toán tiền điện” bằng 5 kiểu khác
nhau. Rồi dậm chân xuống sàn cười ha ha ha, ria đen răng trắng, người
thế này phụ nữ mê phải biết. Rồi lại hơi buồn một chút: “Thế hệ bọn anh
đúng ra là phải lặng lẽ mà đi theo nhạc khí, như các bác Nguyễn Văn
Quỳ, Nguyễn Vĩnh Thưởng ấy, chứ không bao giờ tính tới viết bài hát.
Anh đã đọc của Dương Thụ một bài viết rất hay trên mạng có tên là Những
giấc mơ gẫy cánh”.
4.
Nguyễn Cường đang viết “Khúc Romace Hà Nội” cho đại lễ 1.000 năm Thăng
Long. Sáng tác này bắt nguồn từ ca khúc “Gặp gió sông Hồng” của anh,
phát triển lên thành một đơn ca cùng với dàn hợp xướng, nằm trong một
thanh xướng kịch lớn có tên là “Thăng Long ngàn thủa”.
Đồng thời
anh cũng đã sáng tác xong “Ngàn năm Thăng Long nổi trống Lạc Hồng” –
một hợp xướng cần tới hàng ngàn nghệ sĩ theo hình thức Acapella không
có dàn nhạc đệm, mà biểu diễn trên 100 trống đồng của các nghệ nhân
Thanh Hóa đang đúc tặng Thủ đô.
Anh hát thử cho chúng tôi nghe,
tay vung vẩy sung sướng, chân dẫm thình thịch xuống sàn. Đã hoàn tất
phần văn bản, vấn đề còn lại của hai tác phẩm này chỉ là chạy tài trợ.
“Thế mới là chuyên nghiệp” – Nguyễn Cường lại cười, ria đen răng trắng.
Quỳnh Hương - Thuần Chấn