50 năm đã trôi qua kể từ ngày thống nhất, non sông đổi thay từng ngày, nhưng có một dòng chảy âm thầm và bền bỉ vẫn không ngừng tuôn chảy: đó là dòng chảy của văn hóa Việt Nam.

Ngày 30/4/1975 - thời khắc thiêng liêng ấy đã đi vào lịch sử như một bản hùng ca bất tận. Đất nước liền một dải, nhân dân hai miền Bắc - Nam trào nước mắt trong niềm vui sum họp. 50 năm đã trôi qua kể từ ngày thống nhất, non sông đổi thay từng ngày, nhưng có một dòng chảy âm thầm và bền bỉ vẫn không ngừng tuôn chảy: đó là dòng chảy của văn hóa Việt Nam.

Văn hóa đã đi cùng dân tộc trong khói lửa chiến tranh, và tiếp tục song hành trong thời bình - như một sợi dây nối liền quá khứ với hiện tại, truyền cho hôm nay khí phách, cốt cách và lòng tự hào.

50 năm sau ngày đất nước thống nhất, chúng ta có thể tự hào rằng: bên cạnh những thành tựu về kinh tế, khoa học, đời sống - thì văn hóa chính là một trong những dấu ấn sâu đậm nhất của chặng đường phát triển nửa thế kỷ qua.

Từ những làn điệu dân ca được hồi sinh giữa phố thị, những di sản được gìn giữ và vươn tầm thế giới, đến sự tự tin của người trẻ khi nói về bản sắc dân tộc - tất cả đều là những minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam sau 50 năm hòa bình và phát triển.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 1.

Ngay sau ngày đất nước thống nhất, khi tiếng súng vừa im, dấu vết bom đạn còn in hằn trên những mái nhà, bờ tre, cánh đồng... thì cũng là lúc các nghệ sĩ lên đường - không phải ra trận, mà ra mặt trận tinh thần, mang theo văn hóa đi khắp mọi miền Tổ quốc. Trong hành trang của họ không có súng đạn, chỉ có đàn, có sáo, có kịch bản sân khấu, những chiếc loa rè và tấm lòng đau đáu vì dân tộc.

Trong những năm tháng ấy, nghệ sĩ mang dép cao su, mặc áo bộ đội, ăn cơm bụi, ngủ võng rừng, cùng với bộ đội công binh, cùng nông dân trên ruộng đồng, cùng thanh niên xung phong nơi khai hoang mở đất. Những sân khấu đơn sơ giữa rừng cao su, giữa sân kho hợp tác xã, hay dưới mái tôn xập xệ của những vùng kinh tế mới… đã trở thành nơi khán giả lặng đi vì xúc động trước một điệu chèo, một bản vọng cổ, một trích đoạn kịch nói thấm đẫm tình người và khát vọng sống.

Văn hóa thời hậu chiến không chỉ để giải trí - mà là liều thuốc chữa lành những tâm hồn bị tổn thương, là ngọn đèn thắp lên hy vọng trong những ngày đất nước còn thiếu thốn trăm bề. Những câu hò, điệu lý, tiếng đàn bầu réo rắt… như ôm lấy trái tim con người Việt Nam, vỗ về, động viên, nhắc nhở: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, và với văn hóa, ngày mai sẽ tươi sáng hơn hôm nay!

Điện ảnh Việt Nam, trong hoàn cảnh thiếu thốn cả kỹ thuật lẫn vật chất của thời chiến tranh và hậu chiến, vẫn cho ra đời những bộ phim kinh điển: Cánh đồng hoang (1979) - như một khúc bi tráng về vùng sông nước Đồng Tháp Mười trong chiến tranh, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972) - một bản anh hùng ca về sự chia cắt đất nước và nghị lực con người, Chung một dòng sông (1959) - như khúc hát đoàn viên của hai miền thống nhất. Những bộ phim ấy không chỉ là sản phẩm nghệ thuật, mà là những chứng tích sống động của một thời đại đau thương nhưng đầy hào khí.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 2.

Kịch "Tôi và chúng ta" của Lưu Quang Vũ ra đời năm 1984

Trong làn sóng ấy, nhiều tên tuổi đã tỏa sáng - không phải bằng ánh đèn sân khấu hào nhoáng, mà bằng chiều sâu tư tưởng và tinh thần dấn thân không mỏi mệt. NSND Trà Giang với ánh mắt đầy nội lực và vẻ đẹp nhân hậu, trở thành biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam thời chiến và hậu chiến. Lưu Quang Vũ - với những vở kịch như Tôi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Ông không phải là bố tôi,... - không ngần ngại đào sâu vào thân phận con người, sự thật xã hội, thậm chí là những nỗi đau âm ỉ bị che giấu.

Không thể không kể đến các nhà văn - những người dùng ngôn từ để soi rọi xã hội đang chuyển mình. Nguyễn Minh Châu với triết lý nhân sinh đầy nhân hậu; Nguyễn Huy Thiệp với cách nhìn thẳng vào thực tại, không né tránh; Ma Văn Kháng với những trang viết đầy nhân ái về con người Tây Bắc - tất cả họ đã tạo nên một diện mạo văn chương mới, một dòng chảy tư tưởng sâu sắc và đầy bản lĩnh.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 3.

Đó là thời kỳ mà nghệ thuật không ngồi yên trong tháp ngà. Các nghệ sĩ đã "ra trận" theo cách của mình: đấu tranh bằng cái đẹp, bằng sự tử tế, bằng những giá trị nhân văn sâu sắc. Họ là những người đã giữ lửa trong tim dân tộc, làm cho dân tộc ấy không chỉ đứng dậy bằng thể xác, mà bằng cả tâm hồn.

Có thể nói, những nghệ sĩ tiên phong thời kỳ sau giải phóng không chỉ là người sáng tạo nghệ thuật, mà là những chiến sĩ - chiến sĩ văn hóa - đã góp phần hàn gắn đất nước bằng cảm xúc, bằng niềm tin, bằng ý chí phục sinh. Họ là những cánh chim đầu đàn bay giữa bầu trời sau bão giông, mang theo thông điệp: Dù trải qua bao mất mát, đau thương, con người Việt Nam vẫn có thể mỉm cười, vẫn có thể hát lên, sáng tác và yêu thương. Và chính trong những lời ca, câu chữ, hình ảnh ấy - hồn dân tộc được gìn giữ và tiếp nối.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 4.

Đời sống văn hóa - tinh thần của người dân vùng sâu, vùng xa thêm phong phú nhờ đội chiếu bóng về làng. Trong ảnh là 1 tác phẩm trong bộ ảnh "Chiếu bóng về bản xa" của Phan Xuân Nguyên (HCB Giải ảnh báo chí Khoảnh khắc vàng, 2016). Nguồn ảnh: baogialai

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 5.

Nếu có điều gì chứng minh sức mạnh trường tồn của văn hóa Việt Nam sau 50 năm thống nhất, thì đó chính là di sản. Di sản không chỉ là dấu tích của quá khứ, mà còn là nhịp đập lặng lẽ mà kiên cường của một dân tộc đã trải qua bao biến thiên lịch sử, chiến tranh và chia cắt - vẫn giữ được mình, vẫn vững vàng trong gió bão thời cuộc.

Ngay từ những ngày đầu sau giải phóng, trong khi nhiều quốc gia còn mải miết với tái thiết vật chất, Việt Nam đã ý thức rất rõ tầm quan trọng của việc giữ lấy hồn cốt dân tộc qua những giá trị văn hóa truyền thống. Không đợi đến khi giàu có hay dư dả, công cuộc bảo tồn di sản đã bắt đầu từ trong gian khó - khi ngân sách còn eo hẹp, thiết bị còn thiếu thốn, con người còn đang lo từng bữa ăn, manh áo. Vậy nhưng, từng ngôi đình, từng mái chùa, từng điệu hát dân gian, từng ngôi nhà cổ... vẫn được gìn giữ như báu vật. Bởi người Việt Nam chúng ta hiểu rằng, nếu để mất đi những ký ức ấy, thì dù có xây bao nhiêu toà nhà, dựng bao nhiêu cây cầu - cũng khó mà dựng nổi một nền tảng bền vững cho tương lai.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 6.

Năm 2024, Di sản Văn hóa thế giưới Mỹ Sơn đón 446 nghìn lượt khách trong và ngoài nước. Ảnh: Đoàn Hữu Trung –TTXVN

Sau 50 năm thống nhất, hành trình ấy đã nở hoa kết trái. Từ chỗ chỉ có một vài cái tên được biết đến, nay Việt Nam tự hào có hàng chục di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh. Vịnh Hạ Long với dáng hình kỳ vĩ của non nước. Cố đô Huế như một bản trường ca trầm mặc của hoàng triều xưa. Phố cổ Hội An với đèn lồng vàng óng như giấc mộng, từng viên gạch, từng mái ngói như còn vang vọng tiếng bước chân của bao thế hệ người qua lại. Khu di tích Mỹ Sơn, quần thể tháp Chăm với đường nét kiến trúc đầy mê hoặc, như một bản giao hưởng bằng đá về một nền văn minh từng rực rỡ.....

Không chỉ có di sản vật thể, Việt Nam còn là "kho báu" về di sản phi vật thể - những giá trị không cầm nắm được, nhưng có thể chạm vào trái tim con người. Nhã nhạc cung đình Huế - tiếng nhạc triều đình vang vọng uy nghiêm và sâu lắng. Dân ca quan họ Bắc Ninh - những câu hát giao duyên ngọt như mật, dẻo như tơ. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - nơi âm thanh đại ngàn hòa cùng nhịp cồng chiêng thiêng và hơi thở tổ tiên. Ca trù, hát xoan, đờn ca tài tử, Ví giặm Nghệ Tĩnh, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương... mỗi di sản là một mạch nguồn linh thiêng chảy xuyên suốt dòng thời gian của đất nước...

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 7.

Một góc phổ cổ Hội An buổi chiều tà rực rỡ. (Ảnh: Vietnam+)

Điều đặc biệt hơn cả là: di sản Việt Nam không chỉ nằm trong bảo tàng, cũng không bị "đóng khung" trong các lễ hội, phong tục, tập quán - mà đang dần trở thành một phần không thể thiếu của đời sống đương đại. Hình ảnh các bạn trẻ diện áo dài cách tân xuống phố, chụp hình cưới ở phố cổ, đưa dân ca vào trong video TikTok, remix nhã nhạc Huế thành nhạc "chill", hay biểu diễn cồng chiêng trong các lễ hội văn hóa cộng đồng, hay đưa quan họ trở thành một phần của MV Bắc Bling... là minh chứng rõ ràng cho việc di sản đang "sống lại" theo cách rất mới, rất trẻ và đầy tự nhiên.

Ở nhiều trường học, hát dân ca không còn là "nghĩa vụ" trong những buổi sinh hoạt trường lớp, mà trở thành sân chơi tự nguyện, nơi học sinh tìm thấy niềm vui khi hóa thân thành "liền anh - liền chị".

Ở các thành phố lớn, nhiều quán cà phê, nhà hàng đưa nhạc truyền thống vào không gian phục vụ, không phải để "trang trí", mà để tạo nên bản sắc riêng. Nhiều nhà thiết kế thời trang lấy cảm hứng từ họa tiết thổ cẩm, áo dài tân cổ giao duyên, để tạo ra những bộ sưu tập mang đậm tinh thần Việt Nam nhưng vẫn hợp thời và quốc tế.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 8.

"Bắc Bling" của Hoà Minzy đã khai thác di sản vào âm nhạc đương đại

Ngay cả trong điện ảnh, sân khấu, văn học - di sản cũng đang được khai thác theo cách vừa tôn trọng gốc rễ, vừa sáng tạo về hình thức. Những bộ phim như Tấm Cám: Chuyện chưa kể; Ba Sài Gòn; Đào, phở và piano; Hồng Hà nữ sĩ,.... hay các MV nhạc trẻ lấy bối cảnh đình chùa, cổ phục, lễ hội dân gian... đã đưa văn hóa truyền thống gần gũi hơn với giới trẻ. Không còn khoảng cách giữa cái "cũ" và cái "mới", giữa "truyền thống" và "hiện đại" - bởi chính người trẻ hôm nay đang là nhịp cầu nối hai bờ quá khứ - hiện tại.

"Không còn khoảng cách giữa cái "cũ" và cái "mới", giữa "truyền thống" và "hiện đại" - bởi chính người trẻ hôm nay đang là nhịp cầu nối hai bờ quá khứ - hiện tại"

PGS-TS Bùi Hoài Sơn

Quan trọng hơn cả, sự hồi sinh của di sản không chỉ nằm ở hình thức, mà là ở ý thức - khi người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, bắt đầu tự hào về gốc gác của mình. Họ không mặc áo dài chỉ vì yêu cái đẹp, mà còn vì muốn khẳng định: "Tôi là người Việt Nam". Họ không chỉ quay video hát quan họ vì trào lưu, mà còn để lan tỏa văn hóa dân tộc đến với bạn bè thế giới. Di sản - nhờ đó - đã thoát khỏi lớp bụi thời gian, để bước vào nhịp sống hiện đại bằng một tinh thần mới: trẻ trung, sống động và đầy nội lực.

Đó không chỉ là sự bảo tồn, mà là một cuộc chấn hưng văn hóa, một hành trình làm mới giá trị cũ mà không đánh mất linh hồn của nó. Chính trong sự kết nối giữa ký ức và hiện thực, giữa truyền thống và sáng tạo, văn hóa Việt Nam đã và đang chứng minh: sức sống của di sản là bất tận - miễn là con người biết yêu thương và gìn giữ.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 10.

50 năm sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam đã bước sang một trang mới: từ một quốc gia nghèo, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, giờ đây đang vươn mình mạnh mẽ trên bản đồ khu vực và thế giới.

Những con đường cao tốc nối liền thành phố và nông thôn, những tòa nhà chọc trời, những khu đô thị hiện đại… không chỉ là biểu tượng của sự đổi thay về vật chất, mà còn phản ánh một sự chuyển động sâu sắc trong đời sống văn hóa - nơi đô thị trở thành "lò ấp" của sáng tạo và đổi mới.

Nếu như trong những năm đầu sau giải phóng, khi nói đến văn hóa, người ta hình dung ngay đến các đình, đền, chùa, miếu, bảo tàng, di tích… thì giờ đây, khái niệm văn hóa đã được mở rộng và làm mới, để phù hợp với nhịp sống hiện đại. Văn hóa không còn là thứ "cao siêu", "cổ điển" được gìn giữ trong tủ kính hay khán phòng hàn lâm. Văn hóa giờ đây hiện diện nơi phố xá, sống cùng hơi thở đô thị, bước ra đường và hòa nhập cùng đời sống hàng ngày.

Từ nghệ thuật đường phố với những bức tranh graffiti đầy cá tính trên các bức tường cũ kỹ, đến âm nhạc indie vang lên từ các sân khấu nhỏ giữa lòng thành phố. Từ những bộ phim ngắn của các đạo diễn trẻ chiếu trên nền tảng số, đến các bộ sưu tập thời trang mang đậm dấu ấn bản địa, được giới thiệu tại tuần lễ thời trang quốc tế... Tất cả đều là những mảnh ghép đa sắc của văn hóa đô thị Việt Nam hiện đại - một nền văn hóa không ngừng sáng tạo, thích ứng và khẳng định cá tính riêng.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 11.

Phố đi bộ Hồ Gươm đã trở thành một không gian văn hóa đô thị đặc sắc. Ảnh TTXVN

Không gian đô thị ngày nay chính là nơi giao thoa giữa truyền thống và hiện đại, giữa nghệ thuật hàn lâm và đại chúng, giữa cái tôi cá nhân và cộng đồng. Phố đi bộ Hồ Gươm (Hà Nội), phố đi bộ Nguyễn Huệ (TP.HCM), khu phố Tây Bùi Viện, các khu nghệ thuật như VCCA, Manzi, Đà Lạt View, Bảo tàng thế giới cà phê... là những ví dụ sinh động cho sự "nở hoa" của các mô hình văn hóa đô thị mới.

Tại những không gian ấy, người trẻ không chỉ là khán giả, mà còn là chủ thể sáng tạo. Họ tổ chức các buổi triển lãm tranh tự do, làm chợ phiên văn hóa, trình diễn âm nhạc đường phố, thậm chí biến một con hẻm nhỏ thành nơi kể chuyện về lịch sử Sài Gòn - TP.HCM bằng ảnh, tranh và âm thanh. Những hoạt động ấy không ồn ào, không rầm rộ, nhưng mang một sức sống mạnh mẽ và bền bỉ - vì chúng xuất phát từ nhu cầu được thể hiện bản thân và kết nối cộng đồng.

Đặc biệt, năm 2019, việc Hà Nội tham gia vào Mạng lưới các Thành phố sáng tạo trong lĩnh vực thiết kế của UNESCO đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phát triển công ngiệp văn hóa - sáng tạo ở Việt Nam. Đây không chỉ là sự ghi nhận quốc tế, mà còn là lời khẳng định về tiềm năng văn hóa sáng tạo của Việt Nam trong thế kỷ 21. Sau Hà Nội, đến lượt Hội An, Đà Lạt - những đô thị mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống - cũng bước vào mạng lưới các thành phố sáng tạo, khẳng định rằng: sáng tạo không chỉ đến từ thành phố lớn, mà có thể nảy mầm từ những vùng đất mang hồn cốt xưa của đất nước.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 12.

Đà Lạt đã được công nhận là Thành phố sáng tạo của UNESCO về âm nhạc

Việc tham gia vào Mạng lưới các Thành phố Sáng tạo của UNESCO không đơn thuần là "danh hiệu". Nó mở ra một không gian đối thoại quốc tế, một cơ hội để các thành phố Việt Nam học hỏi, giao lưu, phát triển các mô hình văn hóa - kinh tế sáng tạo bền vững. Các thành phố bắt đầu hình thành chiến lược phát triển văn hóa riêng, đầu tư nhiều hơn cho nghệ thuật công cộng, khuyến khích các startup sáng tạo, tổ chức các lễ hội thường niên mang tầm quốc tế. Văn hóa, từ đó, không còn là "tiêu tiền" - mà trở thành nguồn lực để tạo ra của cải, việc làm và bản sắc đô thị.

Một dấu hiệu tích cực là giới trẻ - những người sinh ra sau thống nhất - đã trở thành lực lượng tiên phong của văn hóa sáng tạo. Họ làm phim tài liệu về văn hóa ẩm thực, tổ chức triển lãm về ký ức đô thị, thành lập các studio thiết kế lấy cảm hứng từ gốm Bát Tràng, tranh Đông Hồ, nhạc cụ dân tộc… Một thế hệ nghệ sĩ, nhà thiết kế, nhà làm phim mới đang thổi một luồng gió mới vào văn hóa Việt Nam - với tinh thần toàn cầu, nhưng gốc rễ thì vẫn đậm chất Việt Nam.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 13.

Đường sách TP.Hồ Chí Minh thu hút các bạn trẻ tới tìm hiểu, mua sách. Ảnh: Anh Tuấn - TTXVN

Điều đặc biệt là những sản phẩm văn hóa này không còn bị bó hẹp trong phạm vi "nghệ thuật để ngắm", mà đã dần trở thành ngành công nghiệp - nơi văn hóa kết nối với công nghệ, kinh doanh và phát triển bền vững. Các mô hình như phim ảnh trực tuyến, trò chơi điện tử mang yếu tố văn hóa Việt Nam, triển lãm số, du lịch sáng tạo, thương hiệu thời trang nội địa... là những minh chứng cho việc văn hóa đã và đang trở thành một động lực phát triển của thành phố và quốc gia.

Không thể phủ nhận, phía sau những bức tranh tươi sáng ấy vẫn còn nhiều thách thức: thiếu cơ sở hạ tầng hỗ trợ sáng tạo, chính sách chưa đồng bộ, nghệ sĩ trẻ còn đơn độc, tài chính còn hạn chế... Nhưng điều đáng quý là ngọn lửa sáng tạo đã được nhóm lên, và một khi văn hóa đã "ra phố", đã đi cùng nhịp sống đô thị, thì không dễ gì dập tắt.

Sức bật của văn hóa đô thị hôm nay không chỉ nằm ở con số các sản phẩm được tạo ra, mà nằm ở tư duy mới về văn hóa: văn hóa không đứng yên, mà luôn vận động; không thuộc riêng ai, mà là tài sản chung; không chỉ để lưu giữ, mà để đối thoại, để sẻ chia, để tạo ra giá trị mới.

"Văn hóa, từ đó, không còn là "tiêu tiền" - mà trở thành nguồn lực để tạo ra của cải, việc làm và bản sắc đô thị"

PGS-TS Bùi Hoài Sơn

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 15.

Trong suốt 50 năm sau ngày non sông liền một dải, Việt Nam không chỉ xây dựng lại đất nước từ đổ nát chiến tranh, mà còn từng bước đưa văn hóa dân tộc vươn ra ngoài biên giới. Từ một đất nước từng bị nhìn qua lăng kính chiến tranh, Việt Nam giờ đây được biết đến với những bản sắc văn hóa phong phú, đậm đà, độc đáo và đầy sức sống.

Văn hóa - bằng cách riêng của mình - đã trở thành một cây cầu mềm mại nhưng bền chắc, nối Việt Nam với bạn bè năm châu bằng những gì đẹp đẽ và nhân văn nhất.

Bùi Thạc Chuyên gây ấn tượng với "Tro tàn rực rỡ" (2022) và Địa đạo" (2025)

Điện ảnh, một lĩnh vực nghệ thuật có sức lan tỏa sâu rộng, chính là một trong những phương tiện tiên phong trong hành trình hội nhập ấy. Những bộ phim như Mùa len trâu của Nguyễn Võ Nghiêm Minh, Bi, đừng sợ! của Phan Đăng Di hay gần đây là Tro tàn rực rỡ của Bùi Thạc Chuyên - không chỉ chinh phục khán giả trong nước mà còn gặt hái nhiều giải thưởng quốc tế, được công chiếu tại các liên hoan phim danh giá như Cannes, Berlin, Busan… Những tác phẩm ấy không cần tô vẽ, không cần hô hào - chỉ bằng sự chân thực, nhân bản và chiều sâu văn hóa, đã kể với thế giới câu chuyện về một đất nước từng đau thương nhưng không khuất phục, từng nghèo đói nhưng đầy phẩm giá, từng chiến đấu nhưng luôn hướng đến yêu thương.

Không chỉ có điện ảnh, các chương trình biểu diễn nghệ thuật truyền thống Việt Nam cũng đang ngày càng góp mặt trong các sự kiện văn hóa quốc tế. Những màn múa rối nước, những tiết mục ca trù, hát xoan, nhã nhạc cung đình Huế, các màn trình diễn áo dài hay nghệ thuật tuồng cổ - khi xuất hiện tại các nhà hát ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ… đã khiến khán giả nước ngoài không khỏi ngỡ ngàng trước sự tinh tế và chiều sâu văn hóa của một dân tộc phương Đông. Những Tuần lễ Văn hóa Việt Nam tại Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Đức, Australia… không chỉ quảng bá nghệ thuật mà còn đưa hình ảnh con người Việt Nam - hiền hòa, sáng tạo, yêu chuộng hòa bình - đến gần hơn với thế giới.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 17.

Phở Việt Nam đã trở thành một thương hiệu ẩm thực được ưa chuộng trên thế giới

Và có lẽ, không gì lan tỏa nhanh chóng và hiệu quả hơn văn hóa ẩm thực - một "ngôn ngữ không lời" nhưng lại có sức thuyết phục tuyệt vời. Phở, bánh mì, bún chả, nem rán, cà phê sữa đá… đã không còn là món ăn của riêng người Việt Nam. Chúng đã có mặt trên khắp các nẻo đường thế giới, từ những quán ăn bình dân ở Paris đến các nhà hàng sang trọng ở New York. Hàng chục nhà hàng Việt Nam được vinh danh với sao Michelin - như một lời khẳng định rằng: ẩm thực Việt Nam không chỉ ngon, mà còn mang theo cả một nền văn hóa sâu sắc và tinh tế.

Nhiều đầu bếp gốc Việt như Christine Hà, Luke Nguyễn, Peter Cuong Franklin... đã góp phần biến ẩm thực Việt thành biểu tượng của sự giao thoa - giữa truyền thống và hiện đại, giữa phương Đông và phương Tây. Họ không chỉ nấu ăn, mà đang "kể chuyện" về quê hương, bằng từng nguyên liệu, từng cách trình bày, từng hương vị được chọn lọc.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 18.

Bạn bè Séc và các nước ASEAN chăm chú quan sát đầu bếp Việt Nam chế biến món Phở truyền thống. Ảnh: TTXVN

Ngoài ẩm thực và nghệ thuật biểu diễn, các hoạt động giao lưu văn hóa, hợp tác giáo dục và nghệ thuật quốc tế cũng là những nhịp cầu quan trọng trong tiến trình hội nhập. Nhiều sinh viên Việt Nam trở thành đại sứ văn hóa trong các trường đại học quốc tế, mang theo những câu chuyện về Tết cổ truyền, áo dài, bánh chưng, tập tục cưới hỏi... để chia sẻ với bạn bè năm châu. Các chương trình hợp tác giữa các bảo tàng, nhà hát, viện nghiên cứu, các festival quốc tế… cũng giúp nghệ sĩ Việt Nam được trình diễn và học hỏi, đồng thời khẳng định tên tuổi Việt Nam trên bản đồ văn hóa toàn cầu.

Chúng ta đã từng chiến đấu vì độc lập, và hôm nay, bước vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, chúng ta cần tiếp tục "chiến đấu" để bảo vệ những giá trị văn hóa làm nên bản sắc dân tộc".

Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây, khi thế giới ngày càng chú trọng các giá trị bền vững, bao dung và nhân văn - thì văn hóa Việt Nam càng có cơ hội để tỏa sáng. Những giá trị truyền thống như tình làng nghĩa xóm, kính trên nhường dưới, hiếu học, cần cù, yêu chuộng hòa bình… không chỉ là đạo lý, mà còn là tài sản văn hóa quý báu, mang tính phổ quát. Việt Nam không hội nhập bằng cách đánh mất mình, mà hội nhập bằng cách chia sẻ phần tốt đẹp nhất của mình với thế giới.

Sự thành công của văn hóa Việt Nam trong hành trình hội nhập không đến từ việc chạy theo trào lưu, mà đến từ việc giữ vững bản sắc. Đó là một hành trình khéo léo: biết "mở cửa" để đón cái mới, nhưng không đánh rơi cội nguồn; biết "hòa nhập" mà không "hòa tan". Đó là cách mà văn hóa - với vai trò là "cánh tay nối dài của ngoại giao" - đã góp phần xây dựng hình ảnh một Việt Nam hiện đại, thân thiện, giàu bản sắc và đầy triển vọng trong mắt cộng đồng quốc tế.

Dòng chảy của văn hóa Việt Nam nửa thế kỷ vươn lên cùng đất nước - Ảnh 20.

Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày 30/4 lịch sử. Năm mươi mùa xuân hòa bình không chỉ là khoảng thời gian để hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng - mà còn là một hành trình bền bỉ và đầy kiêu hãnh của văn hóa Việt Nam. Một hành trình gìn giữ và phát huy những giá trị làm nên cốt cách dân tộc, thắp sáng khát vọng phát triển bằng sức mạnh mềm - sức mạnh của bản sắc, của tâm hồn, của ký ức và niềm tin.

Nhìn lại, ta thấy những câu chuyện văn hóa Việt Nam không chỉ được kể bằng các lễ hội hoành tráng, bằng di sản được vinh danh hay bằng tên tuổi nghệ sĩ - mà còn được viết nên bởi triệu triệu con người bình dị, từ các nghệ nhân âm thầm gìn giữ làn điệu cổ, đến những người mẹ kể chuyện cổ tích cho con mỗi tối; từ những người trẻ remix nhã nhạc trên nền nhạc điện tử, đến những cụ già vẫn giữ lễ nghĩa trong từng lời chào.

Văn hóa - vì thế - không bao giờ là quá khứ. Văn hóa là hiện tại đang sống. Và nếu được nuôi dưỡng đúng cách, văn hóa cũng sẽ là tương lai của dân tộc - là hành trang để Việt Nam vững bước vào kỷ nguyên hội nhập sâu rộng, toàn cầu hóa và công nghệ bùng nổ, mà vẫn giữ được cái hồn dân tộc, vẫn biết mình là ai giữa muôn vàn khác biệt.

Trong một thế giới ngày càng phức tạp, khi con người dễ bị cuốn vào nhịp sống hối hả, dễ quên đi cội nguồn, thì việc giữ gìn và lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc lại càng trở nên quan trọng. Đó không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của giới nghệ sĩ, của ngành văn hóa - mà là trách nhiệm và vinh dự chung của mỗi người dân Việt Nam.

Chúng ta đã từng chiến đấu vì độc lập, và hôm nay, bước vào kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, chúng ta cần tiếp tục "chiến đấu" để bảo vệ những giá trị văn hóa làm nên bản sắc dân tộc. Để sau 50 năm nữa, khi thế hệ cháu con nhìn lại, họ không chỉ thấy một Việt Nam giàu mạnh về kinh tế, hiện đại về công nghệ – mà còn thấy một Việt Nam giàu có về tâm hồn, sâu sắc về bản sắc và lấp lánh những câu chuyện nhân văn.

Bởi suy cho cùng, một dân tộc có thể vượt qua đói nghèo, có thể làm nên kỳ tích kinh tế, nhưng chỉ khi có văn hóa làm nền tảng, dân tộc ấy mới đi xa - đi vững - và đi bằng đôi chân của chính mình.

PGS-TS Bùi Hoài Sơn