Đội tuyển Thụy Sĩ: Chờ tài 'Tướng quân' Hitzfeld

01/06/2014 12:38 GMT+7 | Bảng E

(Thethaovanhoa.vn) - Việc dẫn dắt một đội tuyển kém nổi tiếng như Thụy Sĩ (từ mùa Hè năm 2008 tới nay) dường như đã khiến Ottmar Hitzfeld bị lãng quên, cho dù ông được coi là một trong những HLV thành công nhất của bóng đá châu Âu cấp CLB.

Nhưng tại World Cup 2014, Hitzfeld sẽ có cơ hội để tất cả nhớ rằng ông là ai. Thụy Sĩ không được đánh giá cao khi họ không sở hữu những ngôi sao đẳng cấp thật sự, nhưng với kinh nghiệm và tài cầm quân của chiến lược gia kỳ cựu người Đức, đội tuyển đến từ xứ sở Đồng hồ hoàn toàn có thể trở thành chú “ngựa ô” của giải đấu.

Hitzfeld, một huyền thoại bị lãng quên

Trong bóng đá, những HLV đóng vai trò rất quan trọng, như Napoleon từng nói: “Quân sĩ giành chiến thắng trong các trận đánh, nhưng công trạng thuộc về những vị tướng”. Họ là những người định ra triết lý và tương lai cho một đội bóng, như Sir Alex Ferguson, Jose Mourinho, Pep Guardiola… Nhưng chiến lược gia hiện đại đầu tiên xây dựng đội bóng dựa vào ý tưởng và mang hình ảnh của riêng mình phải là Ottmar Hitzfeld.

Mang biệt danh “The General” (Tướng quân), Hitzfeld là một trong những HLV thành công nhất trong lịch sử bóng đá. Chỉ có 4 HLV trong lịch sử từng vô địch Champions League với 2 CLB khác nhau và Hitzfeld là một trong số đó.

Ngoài ra, ông còn sở hữu 9 chức VĐQG, 6 Cúp QG. Hitzfeld dành phần lớn thời gian trong sự nghiệp cầu thủ ở Thụy Sĩ, trong màu áo Basel, Lugano và Luzern, và cũng ở đây, ông khởi nghiệp HLV tại Zug và Aarau trước khi thành danh với Grasshoppers.

Với 4 danh hiệu chỉ trong 3 năm dẫn dắt Grasshoppers, Hitzfeld đã được Dortmund trải thảm đỏ mời về để rồi cùng đội bóng vùng Ruhr đoạt hai chức vô địch Bundesliga liên tiếp cũng như danh hiệu Champions League ở mùa 1996/97. Đó là lý do tại sao đến năm 1998, đội bóng số 1 nước Đức là Bayern Munich đã đưa Hitzfeld về Allianz và đây là một quyết định sáng suốt của họ.

Trong 6 năm ở Bayern, Hitzfeld đã đem về phòng truyền thống của “Hùm xám” 4 chức vô địch Bundesliga, 2 Cúp QG, nhưng đáng kể nhất là chiếc Cúp bạc Champions League. Trong lần thứ 2 dẫn dắt Bayern (mùa 2007-08), Hitzfeld cũng đem về cú đúp Bundesliga và Cúp QG cho đội bóng số 1 nước Đức.

Hitzfeld xứng đáng với một lời chia tay ngọt ngào

Sau nhiệm kỳ thứ hai với Bayern, Hitzfeld quyết định chuyển sang dẫn dắt một đội tuyển quốc gia vào mùa Hè năm 2008. Và không có gì ngạc nhiên khi Hitzfeld chọn Thụy Sĩ, quê hương thứ hai của ông. Dù vậy, với một đội tuyển có lực lượng khiêm tốn như Thụy Sĩ, Hitzfeld không thể gặt hái được những thành công tương tự như ở cấp CLB.

Ông đã có công đưa Thụy Sĩ tới World Cup 2010 nhưng họ lại bị loại ngay từ vòng bảng, cho dù đã có trận mở màn hoàn hảo bằng chiến thắng 1-0 trước đội sau đó vô địch là Tây Ban Nha. Tại EURO 2012, Thụy Sĩ thậm chí còn không góp mặt khi họ không thể vượt qua vòng loại. Tuy vậy, Thụy Sĩ hiện tại là một đội bóng khác khi họ đã bất bại tại vòng loại World Cup 2014, xếp thứ 8 trên BXH FIFA và từng trải qua chuỗi 16 trận bất bại vào năm ngoái.

Trong một bảng đấu không quá khó với sự góp mặt của Pháp, Ecuador, và Honduras, Thụy Sĩ được kỳ vọng sẽ làm tốt hơn so với giải đấu trên đất Nam Phi, thậm chí là trở thành một chú “ngựa ô” của giải đấu. Hẳn các cầu thủ Thụy Sĩ sẽ muốn có một món quà chia tay cho Hitzfeld, người sẽ rời đội tuyển sau World Cup 2014.

Đội tuyển Thụy Sĩ
Biệt danh: Schweizer Nati
HLV: Ottmar Hitzfeld
Đội trưởng: Gokhan Inler
Thứ hạng FIFA: 8

Danh sách dự World Cup:

Thủ môn: Benaglio (Wolfsburg, sinh năm 1983, 56 trận/0 bàn), Burki (Grasshopper, 1990, 0/0), Sommer (Basel, 1988, 6/0).

Hậu vệ: Djourou (Hamburg, 1987, 44/1), Lang (Grasshopper 1991, 5/1), Lichtsteiner (Juventus, 1984, 62/4), Rodriguez (Wolfsburg, 1992, 20/0), Schar (Basel, 1991, 5/3), Senderos (Valencia, 1985, 53/5), von Bergen (Young Boys, 1983, 40/0), Ziegler (Sassuolo, 1986, 35/1).

Tiền vệ: Barnetta (Eintracht Frankfurt, 1985, 73/10), Behrami (Napoli, 1985, 47/2), Dzemaili (Napoli, 1986, 33/1), Fernandes (Freiburg, 1986, 47/2), Inler (Napoli, 1984, 72/6), Shaqiri (Bayern Munich, 1991, 32/8), Stocker (Basel, 1989, 23/3), Xhaka (M'gladbach, 1992, 25/4).

Tiền đạo: Drmic (Nuremberg, 1992, 6/3), Gavranovic (FC Zurich, 1989, 10/4), Mehmedi (Freiburg, 1991, 20/1), Seferovic (Sociedad, 1992, 10/1).


Vũ Mạnh
Thể thao & Văn hóa

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm