Long Biên - cây cầu tuổi thơ của tôi

15:24 23/07/2010

(Bài dự thi) - Lần đầu tiên tôi được đến chân cầu. Cảm giác đầu đời của tôi về cây cầu sắt này thật là khủng khiếp. Cây cầu sắt thật hùng vĩ ngợp tầm mắt của tôi, đứa trẻ mới 6, 7 tuổi. Khủng khiếp hơn nữa là quanh cầu chăng dầy đặc dây thép gai.

THEO BỐ VƯỢT CẦU

Hè năm ấy, trời nóng như đổ lửa. Cả Hà Nội hầm hập như trong nồi hơi. Nước mất phải vét từng giọt, điện cúp cả ngày lẫn đêm. Nóng hơn cả là tin Tây thất trận Điện Biên đến nơi rồi! Dân chúng trong ngõ tôi kháo nhau: “Ra đầu cầu hay lên nhà thương Đồn Thủy mà xem lính Tây bị thương ở Điện Biên thảm hại lắm”. Bố tôi đèo xe đạp đưa tôi ra đầu cầu. Lần đầu tiên tôi được đến chân cầu. Cảm giác đầu đời của tôi về cây cầu sắt này thật là khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ được nhìn thấy cầu nào to như thế ngoài cái cầu Thê Húc bằng gỗ sơn đỏ bắc vào đền Ngọc Sơn. Cây cầu sắt thật hùng vĩ ngợp tầm mắt của tôi, đứa trẻ mới 6, 7 tuổi. Khủng khiếp hơn nữa là quanh cầu chăng dầy đặc dây thép gai. Lính Lê Dương mặt mũi đen xì, răng trắng nhởn đội mũ sắt, súng ống đầy người, tay lăm lăm dùi cui. Bố tôi dắt xe đạp đưa tôi lên cầu thì thằng Tây đen giơ dùi cui chặn lại. Chúng cấm không cho ai qua lại vì cây cầu lúc này chỉ dành chở lính Tây sang Sân bay lên Điện Biên nhảy dù tiếp viện và chở lính bị thương què cụt từ Điện Biên thất thểu về điều trị. Thế là tôi mất một cơ hội được vượt cầu và mong có ngày sẽ được lên cầu xem cái cầu nó lớn ra làm sao.

Thế rồi Thủ đô được giải phóng. Phải mấy năm sau, tôi mới thỏa được cái mong ước vượt cầu Sông Cái.


Những binh lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội qua cầu Long Biên
(16 giờ ngày 9-10-1954)


Năm ấy, ra tết, trời mưa phùn và lạnh. Bố tôi  tổ chức để hai chị em tôi cùng bố đạp xe sang Gia Lâm, lên Bắc Ninh xem hát quan họ. Hồi ấy, tôi mới tập đi xe đạp, ra đường còn chập choạng. Được bố cho đi xa, chị em tôi mừng lắm. Tôi vừa mừng lại vừa lo. Mừng vì được đi chơi xa nhưng lo vì đạp xe đi trên những con đường lạ mà tôi thì mới chập chững biết đi xe đạp.

Mẹ tôi dậy sớm nắm cho chúng tôi một nắm cơm và chút muối vừng để ăn đường. Ba bố con tôi dạy rõ sớm và lên đường. Đến đầu cầu, tôi gò lưng đẩy xe lên dốc và cố gắng bám sát bố tôi. Đường trên cầu thì trơn, thỉnh thoảng lại gặp những tấm ván gập ghềnh tôi gắng hết sức để không bị trượt. Đến những điểm đường mở rộng để xe tránh nhau, Bố tôi lại cho hai chị em dừng lại nghỉ chân, ngắm cảnh Hà Nội từ giữa lòng sông Hồng. Tôi sung sướng được nhìn thấy từ xa xa cái tháp của nhà máy nước đá, cái nóc nhà Bác Cổ và cả những cánh buồm nâu xa xa dưới mạn Phà Đen…

Sang Từ Sơn - Bắc Ninh xem hội, lần đầu tiên tôi được ăn cái bánh khúc bọc lá rất lạ miệng, được xem cảnh toàn những người là người và cảnh trai gái đánh đu. Các anh các chị, các bà các cụ hát đối mà tôi nghe chẳng hiểu được gì…Chiều về, lại một lần nữa qua cầu nhưng lần này, tôi đã mạnh dạn hơn, đạp phăng phăng chẳng mấy chốc đã về tới nhà. Tôi sung sướng vì lần đầu tiên trong đời đã vượt được cái kỉ lục vượt cầu Sông Hồng sang tận Bắc Ninh. Hôm sau đến lớp tôi khoe thành tích. Cả lũ bạn trợn tròn mắt, khối tượng đứa ganh tị.

NHỮNG CHUYẾN THÁM HIỂM

Quê tôi ở ngay nội thành Hà Nội, mỗi dịp hè về, lũ bạn tôi lại được về quê thăm ông bà họ hàng. Có đứa theo bố công tác ra Hà Nội học, mẹ vẫn ở quê. Chúng nó ở quê ra khoe đủ thứ. Nào là thả diều, cưỡi trâu, bẻ ngô, đào khoai nướng ngay ngoài đồng, rồi thì ôm thân chuối tắm sống thỏa thích. Tôi thèm lắm. Hà Nội chỉ có phố có nhà và đường nhựa. Làm gì có đồng ruộng mà chăn trâu. Tắm sông Hồng thì bố tôi nghiêm cấm. Vả lại tôi thấy dòng sông đỏ ngầu chảy cuồn cuộn cũng đủ khiếp rồi, chẳng dám mom men lội xuống.



Lũ trẻ trong phố tôi rủ nhau ra bãi giữa chơi. Thế là lũ chúng tôi mò ra đê Bác Cổ, trèo lên cái khẩu đại bác cũ nhưng vẫn còn quay tròn được. Bọn trẻ xúm nhau đứa trèo lên ghế, đu lên nòng, thay nhau đẩy quay tròn như những pháo thủ thực thụ vui đáo để. Nghe nói khẩu súng này là súng của Nga sản xuất nhưng do quân Nhật đem sang đặt ở đó từ ngày đảo chính Nhật. Đu chán, chúng tôi rủ nhau theo đê lên đầu cầu rồi sang cái bãi nổi ở giữa sông. Cái bãi nổi này hồi ấy có một làng nhỏ, có nhà tranh, có hàng rào trồng cây chua me, nhiều bụi tre xanh mát chạy dọc ngõ nhỏ đường làng cát mịn thơm mùi hoa bưởi mỗi độ hè về. Quanh bãi là những cánh đồng ngô xanh mướt. Sang đấy, chúng tôi bỏ guốc dép, chân đất mát lạnh, qua làng rồi chạy dọc theo bãi cát hướng đầu nguồn. Đi mãi đi mãi mà chẳng thấy hết bãi. Chúng tôi lại chạy ra chỗ mép sông, nước lặng, những hạt cát óng ánh hắt lên dưới là nước trong, có lũ nòng nọc tung tăng. Chẳng biết lớn lên chúng là ếch, là nhái hay là cóc cũng nên. Cả lũ nằm dài ngắm mây trắng bay trên bầu trời xanh lồng lộng rồi kéo nhau đi moi những củ khoai lang dưới những đám khoai mọc hoang, vỏ tím hồng, bé tí teo đem rửa qua nước sông rồi ăn sống. Nhạt toét nhưng vui đáo để.


Cầu Long Biên bị bom Mỹ đánh phá tháng 6/1967

Ra mép sông, có thằng bé trạc tuổi bọn tôi, mình trần trùng trục lưng đen bóng. Tay cầm cái cần câu bé tý. Ngang lưng buộc sợi dây để giữ cái ống nứa. Thằng bé lấy lưỡi câu nhỏ xíu, cầm cái que móc thứ gì sền sệt trong ống nứa ra quyệt vào lưỡi câu rồi thả theo dòng nước. Cứ chốc chốc lại giật tanh tách, xâu cá cứ ngày càng dài thêm. Tôi xin câu thử nhưng chờ mãi chẳng được con nào. Hỏi ra mới biết, hóa ra mồi câu chính là phân tươi. Kì thật! thế mà cá cứ đớp như điên.

Tôi biết yêu thiên nhiên và sau này theo nghề Sinh học cũng bắt đầu từ đấy và tôi biết ơn cây cầu đã dẫn tôi vào con đường khoa học.

Sau này, sinh hoạt Đội thiếu nhi, chúng tôi thỉnh thoảng cũng tổ chức đi bộ qua cầu ra bãi giữa vừa để tập cắm trại vừa để họp Đội luôn thể. Còn nhớ lần ấy, Cậu Kiên cùng phân Đội với tôi, khi đi trên cầu đã vô tình nhổ bãi nước bọt xuống đám ruộng ngô ở bãi giữa. Thế là hôm ấy, trong buổi sinh hoạt Đội ở xóm giữa, Kiên bị cả Đội lôi ra kiểm điểm về hành vi thiếu văn hóa. Hồi ấy, sinh hoạt Đội nghiêm lắm. Chỉ nhổ bãi nước bọt không đúng chỗ cũng bị lôi ra cạo. Có ai dám vứt rác, phóng uế bừa bãi ngập ngụa dưới bãi đầu cầu như bây giờ đâu. Than ôi! Phú quý giật lùi rồi chăng?

Đất nước chiến tranh, lớn lên, lũ chúng tôi mỗi người một ngả, nằm nơi xa xôi, nghe tin giặc Mỹ ném bom gẫy cầu Long Biên mà lòng đau như xát muối, nước mắt dàn dụa khi nghe tin nhà. “Ôi thủ đô dấu yêu của ta!”.

Bom đạn dội xuống cầu Long Biên hàng ngày bất kể giờ giấc. Mẹ tôi, chị tôi làm trong ngành giao thông túc trực bên đầu cầu phao sông Hồng. Bố tôi, anh em chúng tôi mỗi người một nơi. Tối đến nghe tin chiến sự thấy tin giặc mỹ ném bom Long Biên là tim thót lại, cả đêm trằn trọc lo âu, nhớ mẹ thương chị…

TUỔI THƠ THỜ Ơ

Con tôi lên bảy, nhớ lại chuyện xưa, tôi cho nó theo bố qua cầu. Cây cầu ngày ấy mới được sửa lại sau chiến tranh nên đường cũng gập ghềnh khúc khuỷu hơn. Thằng bé thích thú lắm nhưng nó thích thú như một kẻ được đi chơi công viên thôi. Xem ra cũng chẳng có gì là say sưa, khám phá.

Tôi nay đã có cháu nội. Con cháu đã lên bảy. Sinh nhật cháu, tôi tặng nó cái xe đạp. Xe mới, để cả năm trời mà con bé cũng chưa biết đi. Tôi giận bố mẹ nó, phàn nàn: “Sao các con không cho nó tập đi xe đi?”. Mẹ nó bảo: “Cháu còn phải học Anh văn, phải học thêm”. Nghỉ hè mà con bé chẳng được đi đâu. Nghe nói nó học giỏi nhất trường, tiếng Anh nói làu làu trôi chảy. Tội nghiệp thay! Nó vẫn chưa biết “Cầu Long Biên” là gì. Có chăng chỉ thấy trên Ti Vi trong cảnh hội hè hoành tráng và ồn ào.


Hà Nội 21/7/2010

                                                     Vũ Thế Long

Chia sẻ lên LinkHay.com Chia sẻ lên facebook In bài viết 

Gửi bình luận

Bài bình luận bằng tiếng việt không dấu sẽ bị xóa. Bạn còn 1000 ký tự