Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam: “Phụ nữ tự sát, lỗi tại tiểu thuyết?”

23/03/2010 15:14 GMT+7 | Văn hoá

(TT&VH) - Như TT&VH đã đưa tin, Hội thảo quốc tế về hiện đại hóa văn học Đông Á từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 đã diễn ra trong hai ngày (18 - 19/3) tại Trường ĐHKHXH&NV TP.HCM với rất nhiều tham luận đáng chú ý. Trong bài nghiên cứu rất chi tiết: “Phụ nữ tự sát, lỗi tại tiểu thuyết? Một góc nhìn về phụ nữ với văn chương - xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20”, tiến sĩ Nguyễn Nam (Viện Harvard Yenching, Mỹ) đã bỏ nhiều công phu để khảo cứu từ nhà văn Từ Chẩm Á (1889 - 1937) của phái Uyên Hồ (Trung Quốc) cho đến sự tiếp nhận tân thư và tiểu thuyết mới ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.

Cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Nguyễn Nam không chỉ nhằm nhìn lại một sự kiện chấn động thời bấy giờ - chuyện thiếu nữ tự tử - mà còn gợi mở nhiều thông tin để lý giải về mặt giáo dục, tâm lý và những tác động thực sự của văn chương, nghệ thuật vào xã hội ở mọi thời kỳ.

 

 Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam
* Lịch sử cho thấy, đầu thế kỷ 20 mới có nhiều phụ nữ Việt Nam biết chữ và ham mê đọc sách, nhưng thưa ông, có phải phụ nữ thời này quá “yếu đuối” nên mới bị các tác phẩm tân thư làm cho mất phương hướng?


- Phụ nữ Việt Nam đã trở thành một công chúng đọc mới vào đầu thế kỷ 20. Họ chính thức bước vào học đường, có diễn đàn công khai trên báo chí (khởi sự với Nữ giới chung, 1918); họ đọc tiểu thuyết, và có một bộ phận đọc được cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp.

Một trong những tác giả được dịch rất nhiều (đến trên 30 tác phẩm) vào thời kỳ này là Từ Chẩm Á (Trung Quốc). Truyện của Từ Chẩm Á có rất nhiều thơ ca, và những vần thơ dịch đã phần nào mang hơi thở Truyện Kiều qua ngòi bút tài hoa của các dịch giả Việt Nam. Tiểu thuyết Từ Chẩm Á mà tiêu biểu là Ngọc lê hồnTuyết hồng lệ sử đã làm rung động giới nữ với những tình tiết lãng mạn chưa từng thấy, và văn tài của người dịch cũng đã khiến họ say lòng.

Tiếng nói nữ quyền phát lên từ giữa thập niên 1910 ở Việt Nam đã tìm được minh họa cho những vấn đề mà nó bênh vực trong tác phẩm của Từ Chẩm Á. Tất nhiên cũng phải nói thêm rằng tiểu thuyết “ngôn tình” luôn có hai mặt: Nó có thể cảnh tỉnh người đọc trước hậu quả bi thương của mê ái, nhưng nó cũng có thể mê hoặc độc giả, khiến họ chết đắm trong biển tình của nhân vật tiểu thuyết. Tùy theo học vấn, tâm cảm, và ý thức của chủ thể đọc mà một trong hai mặt tích cực và tiêu cực của đồng xu tiểu thuyết ngôn tình sẽ lộ ra ánh sáng.
 
* Thật sự tác phẩm của Từ Chẩm Á có phải là nguyên nhân chính cho việc tự tử của thiếu nữ trẻ Việt Nam thời bấy giờ. Hay còn những nguyên do khác?

- Khoảng đầu thập niên 1930, khi phụ nữ tự sát đã trở thành “phong trào” hay “bệnh dịch”, người ta thường quay lại “quy tội” cho tiểu thuyết Từ Chẩm Á (đặc biệt là Tuyết hồng lệ sử) và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Tất nhiên, việc phụ nữ tự sát có nhiều nguyên nhân, ví như do thất tình, hôn nhân sắp đặt, bạo hành gia đình, hay chế độ đa thê. Cũng phải kể đến những yếu tố khác, chẳng hạn như khủng hoảng kinh tế - xã hội năm 1932 dẫn đến thất nghiệp và đổ vỡ các hạt nhân gia đình. Xét ở một mức độ nhất định, phong trào tự sát là phản kháng tiêu cực của phong trào nữ quyền trước những áp chế xã hội - đạo đức đối với phụ nữ.  

* Lý do thì có nhiều như vậy, theo ông tại sao thời bấy giờ người ta cứ quy kết tội cho tiểu thuyết? Phải chăng tiểu thuyết là cái gì đó quá xa xỉ thời đó, trong một xã hội Việt Nam mà phần lớn còn mù chữ?

- Có thể lý giải vấn đề này theo nhiều cách khác nhau. Ở đây, chỉ xin trình bày một cách nhìn. Báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 20 luôn có một vài cột (columns) hay thậm chí cả trang dành cho các vấn đề nữ quyền như bình đẳng nam - nữ, giải phóng phụ nữ.

Nữ quyền được cổ vũ, nhưng thường đi kèm với những lời cảnh cáo không nên đi quá đà. Các vấn đề nữ quyền hàm chứa trong tiểu thuyết hẳn nhiên đi vào lòng bạn đọc nữ dễ dàng hơn nhiều so với những bài luận thuyết khô khan. Việc hình thành cộng đồng bạn đọc nữ và việc họ công khai khẳng định quyền đọc tiểu thuyết là những việc chưa từng có trước đây.


Tranh biếm họa việc tự tử thời bấy giờ.
Cùng với sự phát triển của in ấn và việc phổ cập của chữ quốc ngữ, sách truyện và báo chí không còn là món ăn tinh thần quá xa xỉ. Tất nhiên, bạn đọc nữ của những ấn phẩm này là phụ nữ ít nhiều có học, thuộc về tầng lớp “tiểu thị dân”. Họ đóng vai trò khá quan trọng trong việc tạo ra một lối sống “tân thời”, có sức lan tỏa trước hết trong phạm vi đô thị, cùng với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó. Việc quy lỗi “bệnh dịch” này cho tiểu thuyết (Tuyết hồng lệ sử hay Tố Tâm) là một cách nhìn phiến diện, tập trung phản ứng đối với những lệch lạc của bộ phận chủ thể độc giả nữ này, mà không thấy hết được những tác động xã hội lên chủ thể ấy.

* Vậy thì, dưới góc độ xã hội học, ông nghĩ việc tự tử có tác động gì vào việc thay đổi văn học, xã hội thời bấy giờ? Hay chỉ là một “mốt” thời thượng?

- Việc phụ nữ tự sát và ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của tiểu thuyết đối với hiện tượng này trong xã hội hiện đại là một hiện tượng phổ quát xảy ra cả ở phương Đông và phương Tây. Việc hình thành cộng đồng bạn đọc nữ và những yêu cầu của họ đã dẫn đến những thay đổi nhất định trong sáng tác văn chương. Chủ thể độc giả nữ không ngừng chuyển hóa, tự ý thức và tự điều chỉnh theo những biến đổi văn hóa - xã hội mà chủ nghĩa nữ quyền là một bộ phận. Tất nhiên, có một số trường hợp phụ nữ tự tử nơi công cộng như hồ Gươm để được cứu sống, nhưng phụ nữ tự sát không phải là chuyện thời thượng, mà là một phản ứng (dẫu có phần lệch lạc) trước những xung đột cũ - mới, giữa nam quyền và nữ quyền nhằm tái khẳng định chủ thể xã hội và chủ thể đọc của “một nửa thế giới” trong xã hội hiện đại.

Tự tử ở hồ Trúc Bạch qua con mắt Vũ Trọng Phụng

Vấn nạn tự tử của các tiểu thư tân thời hồi đầu thế kỷ 20 do ảnh hưởng của phong trào Âu hóa đã được Vũ Trọng Phụng giễu cợt trong Số đỏ:
 
“Thoạt đầu người ta hay nhảy xuống Hồ Tây, nhưng vì Hồ Tây sâu lắm, những kẻ tự tử chẳng may phần nhiều không mấy ai thoát chết cả, thành thử người ta bảo nhau nhẩy xuống cái bên cạnh là hồ Trúc Bạch nông hơn. Vì lẽ nhà nước cũng khôn, đã cho trồng mấy cái bảng lớn “Cấm ngặt đổ rác xuống Hồ Tây” nên hồ Trúc Bạch lại càng đắt khách. Ðêm đêm, những bác phu xe ế khách, những kẻ trai tráng biết bơi mà thất nghiệp, thường lên chờ ở đấy để hễ nghe thấy tiếng kêu thảm thương ai oán: “Ai cứu tôi với!...” là nhẩy ùm xuống, là vớt ngay được một tiểu thư đẹp nõn lên, rồi đến bót Hàng Ðậu lĩnh tiền thưởng, và sau cùng, thấy ảnh mình đăng trên báo kèm với những cuộc phỏng vấn ỏm tỏi. Vì những lẽ ấy, hồ Trúc Bạch chẳng bao lâu mà trở nên một cách oanh liệt, là một sân khấu của tất cả những tấn đại thảm kịch...” (trích Số đỏ, chương 9)

Phụ nữ tự sát trở thành đề tài cho tiểu thuyết, truyện ngắn ví như: Nước hồ Gươm của Lan Khai (1928), Quanh hồ Hoàn Kiếm của Tâm Việt (1929), Giọt lệ sông Hương (hay Minh Châu lệ sử) của Tam Lang Vũ Đình Chí (1930), Giấc mộng hồ Gươm của Th.Sơn (1931), Lệ Hồng quyên sinh của T.L. (1932), Chưa chết được của Tế Xuyên (1933), hay Cái chết hiếu danh của Lưu Trọng Lư (1934).

Hiện tượng phụ nữ tự sát càng trở nên phổ biến khi nó được đưa lên sân khấu, như vở Ai chết trước nhất tại hồ Hoàn Gươm? của Nhà hát Quảng Lạc (Hà Nội, 1930), vở Vì đâu cô... tự sát của Hội Ái hữu hỏa xa Vân Nam (Hà Nội, 1933), giải thích sự rạn nứt của hạt nhân gia đình nơi tầng lớp thượng lưu xã hội. Cô gái “tân thời” trong kịch vừa là tác nhân, vừa là nạn nhân của những xung đột tân - cựu, hay của sự tha hóa đạo đức giữa buổi giao thời.

Trong những năm 1929-1930, các báo Việt Nam không chỉ đưa tin phụ nữ tự sát ở trong nước, mà còn cả ở các nước Đông Á lân cận, như Trung Quốc và Nhật Bản. Tiểu thuyết, kịch trường, báo chí phân tích, phản ánh việc phụ nữ tự sát, nhưng bản thân các tác phẩm ấy cũng có thể là nguyên nhân khiến “nạn dịch” này càng thêm trầm kha (Theo Nguyễn Nam).


Văn Bảy (thực hiện)

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm