Tính đến đời ông Khuông thì gia tộc Nguyễn Ngọc đã bốn đời làm nghề chạm bạc, chế tác kim hoàn.
* Cha tàiNgày
còn là gã trai tân, ông đã xuống Hà Nội làm nghề. Giữa đất kinh kì, cái
nghề ấy đã giúp ông an cư, lạc nghiệp, gắn đời vào với đất, với người,
với văn hóa Hà Nội. Giờ, không ai bảo, thậm chí ít người biết ông là
người Kinh Bắc, nếu không hỏi hoặc không xem giấy chứng minh nhân dân
của ông.
Trong làng nghề Đại Bái, cha ông Khuông là cố nghệ nhân
Nguyễn Ngọc Khuê được giới thợ suy tôn là bậc cao thủ với tay nghề
“siêu phàm” bậc nhất. Làng Đại Bái vẫn lưu truyền câu chuyện, năm 1929,
cụ Khuê làm lô hàng khảm tam khí (vàng, bạc, đồng) cho một nhà buôn tên
là Hàn Kim mang sang Paris.: Số sản phẩm này sau đó được Hàn lâm viện
Paris cấp bằng chứng nhận (người dân gọi là “Bằng Hàn lâm” và cho rằng
thời thời đó nếu ai nhận được bằng này, oai danh ngang bằng với quan
huyện, quan phủ, gặp quan huyện, quan phủ đường chỉ việc chìa tay ra
bắt chứ không phải cúi lạy như hạng thứ dân(!).
Tiếc là do Hàn lâm viện Paris ngỡ thương buôn Kim Hàn là tác giả của số
sản phẩm kim hoàn ấy nên tên tuổi ghi trong bằng không phải Nguyễn Ngọc
Khuê mà là tên Hàn Kim. Một nhà buôn khác phát hiện ra việc này đã gửi
đơn khiếu nại lên Hàn lâm viện Paris để xin “chứng nhận lại” cho cha
ông. Hàn lâm viện Paris đồng ý nhưng rốt cục, không hiểu sao cụ Khuê chỉ
được nhận Bằng Cửu phẩm, do vua Khải Định ký và đóng dấu chứ không phải
Hàn lâm viện Paris. Bằng Cửu phẩm so với Bằng Hàn lâm thì chỉ là bậc
dưới, chỉ ngang vai phải lứa với ông tổng làng nhưng lần ấy nhận bằng
về, cụ Khuê đã phải giết trâu, mổ bò để khao cả tổng Bình Ngô lúc bấy
giờ…Tiếng
tăm cụ Khuê thời ấy không ai là không biết. Trong các cuộc thi tay
nghề, bậc cao niên căng dây tàu, bật mực lên tấm đồng, yêu cầu thợ đập
búa sao cho mép vết búa hằn trên tấm đồng nối nhau thành một đường
thẳng như vệt mực tàu đã được bật trước đó. Hoặc, một cách khác cụ Khuê
thể hiện đến nay chưa ai làm nổi là với hai tấm đồng lồi lõm khác nhau
chỉ bằng búa, cụ tán phẳng hai tấm đến nỗi khi xếp chồng lên nhau,
chúng dính chặt như được gắn keo, không ai gỡ ra được.
Cụ Khuê
chính là tác giả của thanh kiếm được chạm khắc bộ tứ linh long, lân,
quy, phụng trên cả vỏ, chuôi và lưỡi kiếm từng được Khải Định rất
thích. Hiện nay, thanh kiếm đang được lưu giữ tại đình làng Đại Bái,
nơi thờ ông tổ nghề đúc đồng Nguyễn Công Truyền (989 - 1060). Ngoài ra,
cụ Khuê còn làm rất nhiều tráp, hòm đựng sắc phong tam khí cho vua Khải
Định…
Những thành tích mà cụ Khuê đạt được là một niềm tự hào
lớn đối với không chỉ cá nhân ông Khuông mà còn với cả làng Bưởi xưa
kia. Tiếc là cũng chỉ vì cái bằng Cửu phẩm mà có một thời kỳ cụ bị hiểu
nhầm là địa chủ. Nhiều báu vật cụ làm ra cũng như tất cả những bằng
cấp, giấy tờ, tài liệu liên quan đến nghề chính cụ đã phải tự tay đốt
trụi.
* Con giỏi
Ông
Khuông sinh năm 1930. Năm lên 10 tuổi, gen nghề trong ông Khuông bắt
đầu phát lộ. Ban đầu, vừa xem cha làm việc, ông vừa lân la sang nhà
người hàng xóm, cũng làm nghề như cha mình để xem họ làm thế nào. Chợ
quê ngày xưa họp 5 ngày một phiên. Trong năm ngày ấy, hai vợ chồng và
một người con nhà hàng xóm chỉ làm được cả thảy 25 hộp đựng thuốc lào
bằng đồng. Ông để ý gia đình nghệ nhân ấy làm rất cầu kỳ và mất rất
nhiều thời gian trong khâu làm vành sóng tròn đứng trên miệng hộp. Họ
bắt đầu cũng từ dải bản kim loại, sau đó cuộn tròn, cắt mối và hàn vẩy
như người khác, mỗi lần chỉ hàn được một cái. Ông về bắt chước làm theo
nhưng khi làm vành sóng tròn đứng, ông dùng một sợi thép dài, cắm vào
tay cầm, xâu từng mẻ 50 cái một, đút vào bễ thụt nên hàn rất nhanh. Kết
quả là cũng trong 5 ngày, vợ chồng người nghệ nhân vẫn chỉ sản xuất
được 25 chiếc hộp thuốc lào, còn ông được 250 chiếc.
Mẫu chân nến bằng bạc làm cho khách hàng người Hungary năm 1972 của nghệ
nhân Nguyên Ngọc Khuông
Năm 1948 ông Khuông khăn gói dời quê xuống Hà Nội theo học nghệ nhân
Phạm Văn Khôi. Sau 9 tháng, ông ra làm riêng và chỉ gò liền chứ không
can thiệp bằng cách vẩy hàn, chắp nối. Đấy là tài hoa đặc trưng chỉ có
thợ giỏi làng Đại Bái mới có. Khâu khó nhất để sản phẩm làm hài lòng
khách hàng lại chính là khâu đánh bóng sản phẩm. Nghĩa là, đánh làm sao
để tác phẩm vừa giữ được đường nét chạm trổ vừa sáng bóng, nói nôm na là
nhìn bạc mà cứ tưởng như nhìn innox, có thể làm gương soi được. Nói như
nghệ nhân Khương: “Như thế mới đáp ứng được khách sành chơi đồ chạm Hà
Thành xưa kia. Người Hà Nội xưa có thể nói là sành điệu, thậm chí đôi
khi còn rất xa xỉ trong chuyện ăn chơi, mua sắm. Đã ăn là ăn ngon, đã
mặc là phải đẹp và đã dùng gì là phải sang, phải thể hiện được cái trội,
nhất là với giới thượng lưu. Nghề chạm bạc ở Hà Nội phất lên một phần
nhờ vào tầng lớp thượng lưu, ăn chơi không sợ tốn kém ấy. Tuy vậy, tôi
chưa bó tay với bất kỳ một yêu cầu nào của khách, và tự khách quảng bá
tên tuổi và sản phẩm của tôi với người khác…”.
Sau
năm 1954, ông Khuông làm Chủ nhiệm hợp tác xã có 100 xã viên chế tác đồ
bạc cao cấp xuất đi các nước Đông Âu. Kỷ niệm khiến ông không bao giờ
quên khi còn làm chủ nhiệm không phải là được hưởng lương “ngoại hạng”
(hưởng lương trên cả bậc 7, bậc lương cao nhất) mà là việc nhận chế tác
một hộp bánh Thánh và bộ chân nến theo đơn hàng từ Hungary.
Theo
đơn đặt hàng, nội nhật trong vòng 10 ngày phải giao hàng, ông Khuông
cùng một đồng nghiệp khác (người này làm hộp bánh thánh còn ông Khuông
làm đôi chân nến) chỉ trong 7 ngày đã làm xong. Khi giao hàng, đối tác
vì vui sướng đã bế thốc ông lên “như một đứa trẻ” khen không tiếc lời.
Sau đó, họ thảo ngay một hợp đồng mới kéo dài trong 7 năm, chuyên sản
xuất, chế tác những mặt hàng thủ công, mỹ nghệ bằng bạc, đồng… Đó là
một kỳ tích mà theo ông không phải hợp tác xã nào ở thời bao cấp có
được… Hiện chân nến mẫu ông Khuông vẫn giữ làm kỷ niệm tại nhà riêng,
màu sắc chân nến vẫn “long lanh” như mới vừa được chế tác.
* Thiện tâm
Nhiều
khi, “đa thọ, đa nhục” (thọ lắm, nhục nhiều), đến Xuân Canh Dần vừa
qua, ông tròn 80 tuổi nhưng bắt đầu từ 2005, không ít lần ông đã chạm
đến gianh giới giữa cái sống và cái chết. Đầu tiên là ông phải mổ cắt
đi 60 phân đại tràng do bị ung thư. Hai năm sau (2007) ông tiếp tục
phải vào việc cắt bỏ thận do bị sỏi thận. Năm 2008 ông bị tai biến mạch
máu não, liệt nửa người, đôi mắt từng chỉ nhìn qua một bình sứ cũng có
thể nhận ra vết nứt chỉ bằng nửa sợi tóc có biểu hiện bị đục thủy tinh
thể, chân liệt, người đau. Rất may, giờ ông đã đi lại được bình thường
nhưng sức lực thì đã gần như bị vắt kiệt, mắt không còn nhìn được tinh
anh như trước và đôi tay thì không thể cầm búa, nắn bạc như trước kia
nữa.
Hộp bạc đựng thuốc lá không thấm nước do nghệ nhân Nguyễn Ngọc Khuông
chế tác năm 1962
Tuy
tuổi cao, sức yếu lại mang đầy trọng bệnh, không thể làm nghề được nữa
nhưng hiện nay ông Khuông vẫn là một “ông cố vấn chuyên môn” cho không
chỉ con trai ông mà còn dạy nghề miễn phí cho một số em học sinh nghèo
vượt khó Trường Nguyễn Văn Tố (phố Hàng Quạt). Ông còn giúp đỡ các em
một phần kinh phí đi lại, mua sắm thêm dụng cụ để học nghề. Anh Dũng,
con trai ông là đời thứ 5 nối nghiệp gia đình, hiện nay cũng đã là
người vững nghề và có một cửa hàng riêng ở phố Đặng Tiến Đông. Mặc dù
dạy con, có trò nhưng ông Khuông không bao giờ dám nhận là thầy bởi
theo như ông cho biết, nghề của ông chỉ có một người thầy duy nhất đã
được suy tôn là sư tổ Nguyễn Công Truyền. Vì vậy trong nghề này, ai
xưng thầy, nhận là thầy là phạm húy, thất kính với tổ tiên.
Ông
yêu Hà Nội không chỉ vì Hà Nội là đất thiêng, hội tụ tinh hoa trăm miền
mà còn vì Hà Nội đã là một phần cuộc đời ông, cho ông thành công và cả
những niềm tiếc nuối. Tiếc nuối vì tự tin mình là người có tài năng,
còn nhiệt huyết và trọn vẹn một tình yêu với nghề nghiệp nhưng dù không
hài lòng nhưng đành chấp nhận gác lại rất nhiều dự định cho Hà Nội,
trong đó đáng kể nhất là dự định làm 1.000 chân nến cho đại lễ 1.000
năm Thăng Long sắp tới.
Ông tâm sự: Mấy năm qua, tôi luôn khát
khao được làm một bộ chân nến để thắp sáng trong đêm mừng đại lễ. Một
chiếc chân nến khổng lồ đặt giữa, dạt sang hai bên tả 500 và bên hữu
500 chân nến từ cao xuống thấp, tạo thành một tòa tháp lấp lóa bởi ánh
sáng của bạc, lung linh của nến khi được thắp sáng. Tiếc là tôi không
không thể làm được nữa…”
Yến Nguyễn